Đại tướng Đoàn Khuê - Nhà lãnh đạo, chỉ huy xuất sắc của Quân đội nhân dân Việt Nam

H
Home Content

Đại tướng, Bộ trưởng Quốc phòng Đoàn Khuê thăm và làm việc tại Quân khu 5 (1996). Ảnh: Xuân Quang/TTXVN

Từ khi dấn thân vào hoạt động cách mạng cho đến khi đảm nhiệm các cương vị chủ chốt trong Quân đội nhân dân Việt Nam, ông không những là cán bộ chính trị gương mẫu mà còn là vị tướng mưu lược, người chỉ huy tài giỏi, luôn có mặt ở những chiến trường trọng điểm, ác liệt trong nước, cũng như thực hiện nhiệm vụ quốc tế cao cả.

Kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Đại tướng Đoàn Khuê (29/10/1923 - 29/10/2023) là dịp nhìn lại những đóng góp to lớn của ông đối với cách mạng cũng như sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và công cuộc đổi mới ở nước ta.

Xây dựng tư tưởng chiến thuật để đánh thắng địch

Đại tướng Đoàn Khuê (bí danh là Võ Tiến Trình) sinh ngày 29/10/1923 trong một gia đình giàu truyền thống yêu nước tại làng Gia Đẳng, xã Triệu Tân (nay là xã Triệu Lăng), huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Sinh trưởng trong một gia đình yêu nước, giàu truyền thống đấu tranh cách mạng, năm 1939 ông tham gia phong trào Thanh niên phản đế phủ Triệu Phong. Với nhiệt huyết của tuổi trẻ, ông hăng hái hoạt động, không quản gian khổ, hy sinh.

Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, phẩm chất chính trị và tài năng quân sự của ông được thực tiễn chiến tranh đào luyện. Ở người chiến sĩ cộng sản này, chính trị và quân sự luôn hòa quyện với nhau. Với tư duy nhạy bén, sâu sát thực tế, luôn đi sâu nghiên cứu, nắm vững tư tưởng và nghệ thuật quân sự của Đảng, trong chỉ đạo công tác đảng, công tác chính trị, ông luôn chăm lo xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, quan tâm cơ sở Đảng, coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, chú trọng bồi dưỡng ý chí cách mạng cho cán bộ chiến sĩ.

Đầu năm 1954, trên cương vị Chính ủy Trung đoàn 108 - đơn vị chủ lực cơ động đầu tiên của Liên khu 5, ông cùng Bộ Chỉ huy Chiến dịch, Ban Chỉ huy Trung đoàn, với những sáng kiến, quyết định kịp thời chính xác, chỉ đạo các lực lượng giành thắng lợi: tiêu diệt đồn Măng Đen - cứ điểm kiên cố, trận then chốt của chiến dịch giải phóng Kon Tum.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, Khu 5 là địa bàn chiến lược quan trọng của chiến trường miền Nam Việt Nam, nơi quân viễn chinh Mỹ đổ vào đầu tiên. Vấn đề đặt ra là trong điều kiện kẻ địch có lực lượng quân sự hùng mạnh, với trang bị hiện đại, làm thế nào để ta giữ được thế tiến công, quyền chủ động tiến công và tổ chức chiến đấu thắng lợi. Phó Chính ủy Quân khu Đoàn Khuê đã tìm ra lời giải đáp và có những cống hiến to lớn trong công tác phát động tư tưởng, xây dựng ý chí chiến đấu cho các lực lượng vũ trang quân khu “quyết đánh, quyết thắng giặc Mỹ xâm lược”; cùng với các lãnh đạo, chỉ huy Khu 5, Quân khu 5 bám sát chiến trường; thành lập ba Sư đoàn 3, 2, 1.

Có lực lượng chủ lực mạnh, Phó Chính ủy Quân khu Đoàn Khuê góp phần cùng với tập thể Khu ủy lãnh đạo quân và dân Khu 5 chiến đấu với một loại chiến dịch mới: Chiến dịch tiến công tổng hợp. Khu 5 trở thành địa phương “đi đầu diệt Mỹ” với những trận đánh, chiến dịch nổi tiếng trong lịch sử: Núi Thành (26/5/1965), Ba Gia (29/5 đến 20/7/1965), Vạn Tường (18/8 - 19/8/1965), Plei Me (19/10 đến 26/11/1965), Đồng Dương (17/11 đến 18/12/1965). Đặc biệt quan tâm đến những chiến thuật mới, ông Đoàn Khuê thường nói: “Xây dựng ý chí là bảo đảm cho bộ đội quyết đánh, còn phải xây dựng tư tưởng chiến thuật để đánh thắng địch”.

Không chỉ theo sát bộ đội luyện tập chiến thuật trước khi vào chiến đấu, người chỉ huy xuất sắc, có uy tín này còn thường xuyên động viên kịp thời trước và trong quá trình chiến đấu. Tháng 7/1974 trong trận đánh Nông Sơn - Trung Phước, ông Đoàn Khuê chỉ đạo thực hiện chiến thuật “bao vây đánh lấn, tấn công dứt điểm”. Chiến thắng Nông Sơn Trung Phước đã tạo nên thế và lực mới cho ta trong những năm cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ trên chiến trường Khu 5, có lòng tin sắt đá vào đường lối đánh Mỹ. Với tầm nhìn chiến lược, trong chiến dịch Xuân 1975, ông xử lý nhiều tình huống phức tạp, quyết đoán sắc sảo, góp phần quan trọng vào thắng lợi to lớn của chiến dịch giải phóng Đà Nẵng, tạo đà cho cuộc tổng tiến công giải phóng hoàn toàn miền Nam năm 1975.

Tầm nhìn về chiến lược cán bộ

Đất nước thống nhất, trên cương vị Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 5, đảm nhiệm địa bàn chiến lược Nam Trung Bộ, có tuyến đảo, các tỉnh đồng bằng ven biển và Tây Nguyên, ông Đoàn Khuê cùng Thường vụ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu có phương án phòng thủ phù hợp với tình hình mới. Cùng thời điểm này, lực lượng FULRO vẫn ngoan cố tìm mọi cách chống đối ta. Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 5 Đoàn Khuê đã tiến hành nghiên cứu sâu về nguồn gốc, quá trình hình thành và tính chất hoạt động của chúng, nên chuyển nhận thức “truy quét FULRO” thành vấn đề “giải quyết FULRO”, vì FULRO không phải đơn thuần vấn đề quân sự mà cả vấn đề chính trị. Từ đó, vấn đề “giải quyết FULRO” ở Quân khu 5 đi đúng hướng, có hiệu quả cao.

Bên cạnh đó, ông Đoàn Khuê còn rất quan tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ con em người dân tộc thiểu số. Năm 1979, ông cùng tập thể Thường vụ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu tổ chức Trường Quân chính 2 ở Tây Nguyên (nay là Trường Thiếu sinh quân dân tộc Quân khu 5). Đây là sáng kiến có tầm chiến lược, thể hiện rõ chính sách dân tộc và chiến lược cán bộ, chiến lược con người của Đại tướng Đoàn Khuê. Đã có có hàng nghìn cán bộ phân đội bộ binh và binh chủng được bổ túc, đào tạo ngắn hạn, hàng nghìn thiếu sinh quân được nuôi dưỡng và trưởng thành từ mái trường này, đáp ứng yêu cầu về cán bộ quân sự cho địa bàn chiến lược Tây Nguyên nói riêng và lực lượng vũ trang Quân khu 5 nói chung.

Đối với nhiệm vụ giúp bạn Campuchia, năm 1979, Quân khu 5 đảm nhiệm một hướng chiến lược quan trọng, ông trực tiếp làm Tư lệnh chiến dịch, khẩn trương chuẩn bị lực lượng, chuẩn bị chiến trường, chỉ huy đánh tạo thế chiến dịch đến kết thúc chiến dịch đều giành thắng lợi, đạt yêu cầu của Bộ Quốc phòng đề ra.

Back
Top