Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam

H
Home Content

Nhân dịp đầu xuân mới 2023, phóng viên báo Tin tức đã có cuộc trò chuyện với Trung tướng Bùi Quốc Oai, Chính ủy Cảnh sát biển Việt Nam (CSBVN) về việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam tinh, gọn, mạnh, tiến thẳng lên hiện đại.

Trung tướng Bùi Quốc Oai, Chính ủy Cảnh sát biển Việt Nam.

Xin Trung tướng cho biết những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng tổ chức biên chế Quân đội tinh, gọn, mạnh?

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ sáng lập, tổ chức ra Quân đội mà còn có nhiều công lao to lớn trong việc giáo dục, rèn luyện, xây dựng Quân đội ta phát triển vững mạnh về mọi mặt. Từ thực tiễn xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, trong đó tư tưởng về xây dựng tổ chức, biên chế Quân đội tinh, gọn, mạnh đến nay vẫn còn nguyên giá trị, rất toàn diện và sâu sắc, thể hiện qua những nội dung chủ yếu sau:

Về tiêu chí tổ chức, biên chế Quân đội tinh, gọn, mạnh, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết và quan trọng nhất là bộ máy gọn nhẹ, không cồng kềnh; trong bộ máy ấy có ít bộ phận, hạn chế tối đa tầng nấc trung gian, cán bộ và chiến sĩ “ít nhưng tinh”, đủ sức hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ được giao. Trong quá trình lãnh đạo xây dựng Quân đội cách mạng, đặc biệt khi bàn đến những nội dung cụ thể về xây dựng “Quân đội tinh nhuệ”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những kết luận rất quan trọng, Người luôn nhất quán với quan điểm phát triển lực lượng theo hướng “Quý hồ tinh, bất quý hồ đa”. Trong nhiều đợt chỉnh huấn, chỉnh quân, Người đã chỉ thị các cơ quan, đơn vị phải ra sức học tập, rèn luyện để đạt tới trình độ “tinh binh, tinh cán”.

Những quan điểm của Người là tiền đề lý luận - thực tiễn rất quan trọng để Đảng, Nhà nước ta vận dụng vào xây dựng “Quân đội tinh nhuệ”, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng mới. Ngoài những đặc tính “ít mà tốt”, “tinh binh, tinh cán”, “gọn nhẹ, cơ động nhanh, tính chính xác cao”…, tính hiệu quả của bộ máy quân sự còn thể hiện ở khả năng tương tác, phối kết hợp chặt chẽ giữa các bộ phận chức năng sao cho nhịp nhàng, ăn khớp, đồng bộ để vừa có sự phân định chức trách, nhiệm vụ rõ ràng, không bị chồng lấn, vừa có sự gắn kết, ăn ý và phát triển bền vững, hiệu quả, thiết thực giữa các bộ phận ấy.

Với phương pháp tư duy khoa học, cách mạng, đặc biệt là sự tôn trọng con người, từng công việc của cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Tất cả mọi người, bất kỳ ở một chức vụ nào, cao hay thấp, to hay nhỏ, tất cả mọi người làm thành một bộ máy. Thiếu một người nào hay có một người không làm tròn nhiệm vụ là hỏng cả”. “Tinh, gọn” tức là không có người thừa, người thiếu trong bộ máy đó; “đồng bộ” tức là hoạt động của một người, một bộ phận sẽ tác động đến sự vận hành chung của cả một bộ máy, làm cho bộ máy hoạt động thông suốt; “hiệu quả” tức là ít người mà làm được nhiều việc, chi phí ít sức người mà hiệu qua thu về thắng to, có lời, có lãi - đó là quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tổ chức, biên chế bộ máy tinh, gọn, mạnh.

Về yêu cầu chấn chỉnh tổ chức, biên chế, sắp xếp lại Quân đội theo hướng tinh, gọn, mạnh, với sự quan sát tinh tế, nhanh nhạy, Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm nhận ra các biểu hiện “lệch chuẩn”, đi ngược lại tiêu chí xây dựng bộ máy tinh, gọn đã xác định. Vì thế, vào tháng 8 năm 1951, thời điểm mà bộ máy của Quân đội còn nhỏ, gọn, cuộc kháng chiến chống Pháp đang ở giai đoạn ác liệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố “thực hành chủ trương chấn chỉnh tổ chức biên chế để giảm bớt đóng góp của Nhân dân và bổ sung thêm lực lượng cho công việc đẩy mạnh tăng gia sản xuất”.

Năm 1952, nói chuyện với cán bộ ngành Quân nhu, Người đã đưa ra khái niệm “tinh giản bộ máy”. Người khẳng định rõ sự cần thiết và ý nghĩa của việc tinh, gọn biên chế, nêu rõ yêu cầu phải tinh giản bộ máy trong cả hệ thống chính trị chứ không chỉ riêng trong các đơn vị Quân đội. Như vậy, vấn đề “tinh giản biên chế” đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra như một yêu cầu bức thiết và phải có biện pháp quyết liệt để thực hiện mục tiêu ấy. Đây không chỉ là công việc “cắt bỏ cơ học” những người dôi dư mà là sự cần thiết phải nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ.

Người đánh giá cao tác dụng của công tác “giản biên” không chỉ ở góc độ kinh tế mà còn ở góc độ văn hóa và đạo đức khi nó thôi thúc đội ngũ cán bộ phải phấn đấu vươn lên, tự tu dưỡng vượt qua chính mình để hoàn thiện bản thân về mọi mặt, phải nâng mình lên cho xứng tầm yêu cầu nhiệm vụ, đáp ứng tốt nhất yêu cầu của tổ chức, của nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Về giải pháp để xây dựng tổ chức, thực hiện “tinh giản biên chế” theo hướng gọn, mạnh, tực hiện phương châm “muốn lúa tốt phải diệt cỏ”, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khuyến khích việc nâng cao tính tích cực của nhân tố con người và tìm biện pháp triệt tiêu nguyên nhân làm nảy sinh những vấn đề tiêu cực trong công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ. Đó là đẩy mạnh công tác giáo dục đạo đức công vụ, nâng cao ý chí quyết tâm sửa đổi lối làm việc của đội ngũ cán bộ các cấp.

Người dạy rằng, để có một bộ máy thực sự tinh, gọn, mạnh, công tác tuyên truyền của Đảng, Nhà nước và Quân đội phải đổi mới nội dung, hình thức, làm cho cán bộ, chiến sĩ ngày càng nhận thức đầy đủ, sâu sắc vị trí, vai trò và ý nghĩa của “người đầy tớ trung thành của Nhân dân” và bổn phận, trách nhiệm phải hoàn thành tốt “phận sự” của mình.

Người chỉ rõ: khi cán bộ, chiến sĩ có đạo đức cách mạng, có kỷ luật lao động tự giác nghiêm minh, có phương pháp làm việc khoa học thì một người có thể làm công việc của hai người, một ngày có thể hoàn thành công việc của hai ngày, tức là tính hiệu quả của bộ máy sẽ được nâng lên, ích lợi từ sự phấn đấu của đội ngũ cán bộ được khẳng định. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng sự cồng kềnh của bộ máy nhà nước có thể là do một bộ phận cán bộ công chức làm việc luộm thuộm, “thiếu óc tổ chức, thiếu tính chính quy”.

Để bộ máy được tổ chức khoa học và nguồn nhân lực được sử dụng hiệu quả, nhất thiết phải bắt đầu từ việc làm tinh gọn bộ máy. Ở đó, nhiệm vụ của mỗi bộ phận, mỗi người phải được quy định rõ ràng. Các cấp và các cán bộ lãnh đạo phải giúp đỡ và đôn đốc thường xuyên, phải giám sát và kiểm tra chặt chẽ. Đặc biệt, người lãnh đạo phải biết “dụng nhân như dụng mộc”, tức là biết loại bỏ những cán bộ thoái hóa, biến chất, hư hỏng, giống như người thợ lành nghề biết loại bỏ gỗ mục, biết đặt từng con người vào đúng vị trí, phù hợp với sở trường, sở đoản; biết kết hợp các loại cán bộ để họ có thể bổ trợ, giúp đỡ nhau cùng hoàn thành tốt nhiệm vụ; nhờ đó, bộ máy gọn nhẹ và hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, bộ máy “phình to” chủ yếu là do một số cán bộ có chức, có quyền đã tìm mọi cách “đem người tư làm việc công”. Căn bệnh tư túng, bè phái, địa phương chủ nghĩa cũng gây khó khăn cho công tác cán bộ vì cán bộ chỉ chăm chú đến lợi ích của địa phương mình lên trên hết. Tùy hoàn cảnh mà họ muốn giữ lại cán bộ của địa phương mình hoặc không chịu tinh giản biên chế ở đơn vị mình, gây cản trở cho sự điều tiết cán bộ trong toàn hệ thống.

Nếu không ngăn chặn, đẩy lùi những căn bệnh này trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo thì bộ máy sẽ ngày càng “phình to” mà không mạnh. Sử dụng đội ngũ trí thức làm công tác tư vấn về những vấn đề mà họ am tường cũng là một công việc được Người đặc biệt quan tâm. Nhờ chủ trương đúng đắn này mà Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu tuy gọn nhẹ mà làm được rất nhiều việc hiệu quả.

Phát huy vai trò của cơ quan thanh tra Chính phủ, Người cho rằng cơ quan thanh tra là bộ phận không thể thiếu trong bộ máy Chính phủ, nhiệm vụ của thanh tra không chỉ là chống tham ô, lãng phí mà còn chống quan liêu - căn bệnh làm cho bộ máy trở nên cồng kềnh, yếu kém, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giao cho Ban Thanh tra quy chế đặc biệt là “tiên hành, hậu thuyết”, tức là có quyền đình chức, bắt giam bất cứ nhân viên nào trong UBND hay của Chính phủ đã phạm lỗi rồi báo cáo Hội đồng Chính phủ sau.

Người còn yêu cầu lãnh đạo các cấp tuyệt đối không được thao túng công tác thanh tra mà phải hợp tác để cán bộ thanh tra hoàn thành chức trách, nhiệm vụ của mình. Nhờ đó, những căn bệnh cố hữu của Nhà nước được ngăn chặn. Như vậy, khi nước ta vẫn trong giai đoạn phải bổ sung và phát triển về cán bộ, khi đội ngũ cán bộ vẫn còn ít về số lượng và chất lượng chưa tốt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn thấy nguy cơ “phình đại” của bộ máy quan liêu. Tiên lượng rõ cái thừa khi đang còn thiếu, cái xấu khi đang còn tốt, tìm ra cách thức ngăn chặn những căn bệnh còn trong giai đoạn manh nha…

Qua đó, đã thể hiện tầm nhìn sâu rộng, sự nhạy cảm chính trị, tính quyết đoán trong công tác tổ chức và tấm lòng vì dân, vì nước của Người. Nhìn chung, nội dung tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng tổ chức, biên chế tinh, gọn, mạnh không chỉ có ý nghĩa trong lịch sử mà ngày nay vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc. Đây cũng là cơ sở lý luận quan trọng để xây dựng Quân đội nhân dân nói chung, CSBVN nói riêng tinh, gọn, mạnh, ngang tầm với nhiệm vụ chính trị trong tình hình mới.

Thiếu tướng Lê Quang Đạo, Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam kiểm tra công tác sẵn sàng chiến đấu trên tàu Cảnh sát biển (Bộ Tư lệnh Vùng Cảnh sát biển 2).

Vậy để vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng CSB tinh, gọn, mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, BTL CSBVN đã đặt ra những yêu cầu gì, thưa Trung tướng?

Hiện nay, về cơ bản, tổ chức, biên chế, trang bị phương tiện của lực lượng CSB đã và đang được đầu tư đúng hướng, bảo đảm được sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng; sự lãnh đạo, chỉ huy tập trung, thống nhất từ Đảng ủy, BTL đến các cơ quan, đơn vị; sự bao quát toàn diện các nhiệm vụ và triển khai thuận lợi các biện pháp công tác trong toàn lực lượng.

Tuy nhiên, trước yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển đảo và thực thi pháp luật trên biển trong giai đoạn mới, đòi hỏi lực lượng CSB phải quán triệt sâu sắc, đầy đủ các nội dung trong tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng tổ chức, biên chế tinh, gọn, mạnh, trên cơ sở đó, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, cán bộ, chiến sĩ trong toàn lực lượng cần tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ sau:

Trước hết, tập trung thực hiện tốt việc quán triệt, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, chiến sĩ, nhất là cấp ủy, chỉ huy các cấp về nhiệm vụ điều chỉnh tổ chức, biên chế CSB trong tình hình mới. Đây là nội dung rất quan trọng nhằm thống nhất nhận thức, đề cao trách nhiệm trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ và phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, bằng nhiều biện pháp quyết liệt, có chiều sâu, hiệu quả.

Nội dung giáo dục cần tập trung phổ biến, quán triệt làm rõ quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự vận dụng của Đảng, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và các chỉ thị, hướng dẫn của trên về điều chỉnh tổ chức CSBVN. Cùng với đó, cần tiếp tục tham mưu cho Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng nhanh chóng sắp xếp, kiện toàn tổ chức biên chế của lực lượng như:

Thành lập mới cơ quan chuyên trách để nắm, phân tích, đánh giá tình hình, tham mưu tác chiến; sáp nhập các cơ quan bảo đảm hậu cần, kỹ thuật để thống nhất chỉ huy, quản lý; tổ chức lại các cơ quan khối nghiệp vụ pháp luật cho phù hợp với chức năng, nhiệm vụ trong tình hình mới; chấn chỉnh, sắp xếp lại hẹ thống cơ quan pháp chế và thành lập các cơ quan khối tư pháp CSB.

Đồng thời, tập trung các nguồn lực bảo đảm phương tiện, vũ khí, trang bị, xây dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ, chính quy, phấn đấu đến năm 2030, CSBVN đạt trình độ hiện đại.

Thứ hai, quan tâm xây dựng nguồn nhân lực hiện đại, có đủ bản lĩnh, phẩm chất, năng lực chỉ huy, chỉ đạo và trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng để quản lý, khai thác, làm chủ các loại phương tiện, vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại.

Trong đó, đặc biệt quan tâm đến công tác tuyển chọn, đào tạo đội ngũ cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật có đủ số lượng, cơ cấu ngành nghề; nâng cao chất lượng đào tạo, huấn luyện, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, nhân viên kỹ thuật cả về trình độ chỉ huy, quản lý, chuyên môn nghiệp vụ và trình độ ngoại ngữ; tăng cường đột phá vào công tác huấn luyện, chuyển giao công nghệ từ khi triển khai đóng mới tàu hay tiếp nhận trang bị mới, trong đó trọng tâm là đội ngũ cán bộ, nhân viên trực tiếp khai thác, sử dụng vũ khí trang bị kỹ thuật.

Tăng cường tổ chức các hội thi, hội thao thực sự có chất lượng, hiệu quả nhằm thúc đẩy phong trào huấn luyện tại đơn vị, phấn đấu làm chủ vũ khí, trang bị kỹ thuật trong hoạt động thường xuyên cũng như trong tình huống khó khăn, phức tạp nhất. Đồng thời cần có nhiều chủ trương, chế độ chính sách phù hợp, kịp thời quan tâm, chăm lo đến đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ, chiến sĩ CSB, nhất là đội ngũ trực tiếp thực hiện nhiệm vụ trên các vùng biển, đảo.

Thứ ba, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang bị kỹ thuật hiện đại và tạo nguồn vật tư dự trữ đầy đủ, kịp thời. Thời gian tới, CSB cần tiếp tục được đầu tư mua sắm phương tiện, trang bị kỹ thuật nghiệp vụ hiện đại, đóng mới tàu thuyền, trong đó chú trọng đầu tư đóng các tàu có trọng tải lớn có thể hoạt động dài ngày trên biển xa.

Back
Top