Hoa hậu Hà Kiều Anh sau khi xem “Mưa đỏ” đã viết về ông ngoại mình sâu sắc dù phim không nhắc đến những chiến sĩ âm thầm trên mặt trận ngoại giao như ông.
Mấy hôm trước, cả nhà cùng nhau đi xem phim Mưa Đỏ. Bộ phim kết thúc mà lòng tôi vẫn còn nghẹn lại.
Ông Hà Văn Lâu, Đại tá, Tham mưu trưởng, Cục trưởng Cục Tác chiến, Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Thừa Thiên-Huế, Chỉ huy trưởng mặt trận, Đại sứ đầu tiên tại Liên hợp quốc, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao kiêm Trưởng ban Việt kiều Trung ương, và Phó Trưởng đoàn đàm phán Hiệp định Paris.
Từng khung hình, từng câu thoại, từng hy sinh thầm lặng trong phim đã gợi về bóng dáng một người mà tôi luôn kính trọng và yêu thương – ông nội Hà Văn Lâu.
Ông Hà Văn Lâu, Bà Nguyễn Thị Bình, Ông Xuân Thuỷ trong Hội nghị Paris từ trái qua.
Đây là những tấm hình quý giá của Hội nghị Hiệp định Geneve 1954 mà ông đã gìn giữ bao năm qua
Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (ký ngày 27/1/1973) được đàm phán với sự tham gia của 4 phái đoàn chính thức:
1. Phái đoàn Hoa Kỳ – do Cố vấn An ninh quốc gia Henry Kissinger (sau này là Ngoại trưởng) làm Trưởng đoàn.
2. Phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – do Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ dẫn đầu. Trưởng đoàn là Bộ trưởng Ngoại giao Xuân Thuỷ.
3. Phái đoàn Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (PRG) – do Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Thị Bình làm Trưởng đoàn.
4. Phái đoàn Việt Nam Cộng hòa (Chính quyền Sài Gòn) – do Ngoại trưởng Trần Văn Lắm, về sau có Phạm Đăng Lâm tham gia, đại diện.
Nếu không nhờ Mưa Đỏ, có lẽ tôi cũng chưa từng ngồi lại để tìm hiểu đầy đủ về Hiệp định Genève, Hiệp định Paris và vai trò ông đã gánh vác trong những thời khắc lịch sử của dân tộc. Ông là một nhà ngoại giao kiên cường, một người lính trận không mang súng, người đã góp phần quan trọng vào tiến trình đàm phán để mở ra con đường hòa bình.
Ông là một trong số rất ít người Việt Nam trực tiếp tham gia ở cả hai bản hiệp định lịch sử:
Hiệp định Genève 1954
Ông tham dự với tư cách chuyên viên quân sự của Đoàn đàm phán Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trực tiếp tham gia các cuộc thương lượng về đình chỉ chiến sự, đóng góp vào thành công chung của hội nghị và bản hiệp định. Sau khi Hiệp định ký kết, ông được giao nhiệm vụ làm Trưởng Phái đoàn của Việt Nam Giám sát và thi hành Hiệp định Genève của Bộ Tổng tham mưu QĐNDVN bên cạnh Uỷ ban Quốc tế Giám sát và Thi hành Hiệp định Genève.
Hiệp định Paris 1973
Ông là Phó Trưởng đoàn đàm phán của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ông là người kiên quyết bảo vệ lập trường chỉ chấp nhận bàn tròn để cả 4 bên tham gia đàm phán một cách bình đẳng.
Ông từng nói:
“Đàm phán là một mặt trận không tiếng súng.”
“Mỗi điều khoản trong hiệp định đều phải được chuẩn bị như một kế hoạch tác chiến.”
Khi còn sống, ông rất ít khi kể về những chiến công của mình. Với con cháu, ông chỉ giản dị là một người ông hiền hậu, sâu sắc và đầy tự trọng. Nhưng trong ánh mắt ông, tôi luôn thấy ở đó cả một chiều sâu của thời cuộc và tình yêu lớn dành cho đất nước.
Mưa đỏ là một tác phẩm điện ảnh “hư cấu lịch sử”, không nhắc đến ông, nhưng đã khơi gợi trong tôi ký ức và niềm tự hào. Đó cũng là lời tri ân đến những con người âm thầm làm nên hòa bình, để tên tuổi họ, như ông nội tôi, vẫn sống mãi trong trái tim con cháu và trong lịch sử dân tộc.
Mấy hôm trước, cả nhà cùng nhau đi xem phim Mưa Đỏ. Bộ phim kết thúc mà lòng tôi vẫn còn nghẹn lại.

Ông Hà Văn Lâu, Đại tá, Tham mưu trưởng, Cục trưởng Cục Tác chiến, Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Thừa Thiên-Huế, Chỉ huy trưởng mặt trận, Đại sứ đầu tiên tại Liên hợp quốc, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao kiêm Trưởng ban Việt kiều Trung ương, và Phó Trưởng đoàn đàm phán Hiệp định Paris.

Từng khung hình, từng câu thoại, từng hy sinh thầm lặng trong phim đã gợi về bóng dáng một người mà tôi luôn kính trọng và yêu thương – ông nội Hà Văn Lâu.

Ông Hà Văn Lâu, Bà Nguyễn Thị Bình, Ông Xuân Thuỷ trong Hội nghị Paris từ trái qua.


Đây là những tấm hình quý giá của Hội nghị Hiệp định Geneve 1954 mà ông đã gìn giữ bao năm qua
Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (ký ngày 27/1/1973) được đàm phán với sự tham gia của 4 phái đoàn chính thức:
1. Phái đoàn Hoa Kỳ – do Cố vấn An ninh quốc gia Henry Kissinger (sau này là Ngoại trưởng) làm Trưởng đoàn.
2. Phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – do Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ dẫn đầu. Trưởng đoàn là Bộ trưởng Ngoại giao Xuân Thuỷ.
3. Phái đoàn Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (PRG) – do Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Thị Bình làm Trưởng đoàn.
4. Phái đoàn Việt Nam Cộng hòa (Chính quyền Sài Gòn) – do Ngoại trưởng Trần Văn Lắm, về sau có Phạm Đăng Lâm tham gia, đại diện.
Nếu không nhờ Mưa Đỏ, có lẽ tôi cũng chưa từng ngồi lại để tìm hiểu đầy đủ về Hiệp định Genève, Hiệp định Paris và vai trò ông đã gánh vác trong những thời khắc lịch sử của dân tộc. Ông là một nhà ngoại giao kiên cường, một người lính trận không mang súng, người đã góp phần quan trọng vào tiến trình đàm phán để mở ra con đường hòa bình.
Ông là một trong số rất ít người Việt Nam trực tiếp tham gia ở cả hai bản hiệp định lịch sử:

Ông tham dự với tư cách chuyên viên quân sự của Đoàn đàm phán Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trực tiếp tham gia các cuộc thương lượng về đình chỉ chiến sự, đóng góp vào thành công chung của hội nghị và bản hiệp định. Sau khi Hiệp định ký kết, ông được giao nhiệm vụ làm Trưởng Phái đoàn của Việt Nam Giám sát và thi hành Hiệp định Genève của Bộ Tổng tham mưu QĐNDVN bên cạnh Uỷ ban Quốc tế Giám sát và Thi hành Hiệp định Genève.

Ông là Phó Trưởng đoàn đàm phán của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ông là người kiên quyết bảo vệ lập trường chỉ chấp nhận bàn tròn để cả 4 bên tham gia đàm phán một cách bình đẳng.
Ông từng nói:
“Đàm phán là một mặt trận không tiếng súng.”
“Mỗi điều khoản trong hiệp định đều phải được chuẩn bị như một kế hoạch tác chiến.”
Khi còn sống, ông rất ít khi kể về những chiến công của mình. Với con cháu, ông chỉ giản dị là một người ông hiền hậu, sâu sắc và đầy tự trọng. Nhưng trong ánh mắt ông, tôi luôn thấy ở đó cả một chiều sâu của thời cuộc và tình yêu lớn dành cho đất nước.
Mưa đỏ là một tác phẩm điện ảnh “hư cấu lịch sử”, không nhắc đến ông, nhưng đã khơi gợi trong tôi ký ức và niềm tự hào. Đó cũng là lời tri ân đến những con người âm thầm làm nên hòa bình, để tên tuổi họ, như ông nội tôi, vẫn sống mãi trong trái tim con cháu và trong lịch sử dân tộc.