Nhà thơ có hai câu thơ bất hủ chống tham nhũng, dẫn đến một án tử hình gây chấn động thời đại

V
Màu của em
Phản hồi: 1

Màu của em

Thành viên nổi tiếng
“Bữa tiệc chúng ta sắp chén đẫy hôm nay
Được dọn bằng xương máu của chiến sĩ.”
Hai câu thơ của Đoàn Phú Tứ (1910 - 1989) như một nhát dao xuyên thẳng vào lương tri người đọc, nhắc nhở về cái giá của hòa bình và tự do. Viết giữa những năm tháng kháng chiến chống thực dân Pháp, chúng không chỉ là tiếng nói của một nhà thơ mà còn là lời cảnh tỉnh gửi đến cả một thế hệ.
1754702979555.png

Trước Cách mạng Tháng Tám 1945, Đoàn Phú Tứ đã là một gương mặt nổi bật của thi đàn Việt Nam. Bài thơ Màu thời gian, đăng trên báo Ngày Nay dịp Tết 1940, trở thành dấu ấn của một phong cách thơ vừa mới mẻ, vừa tinh tế. Tác phẩm này sau đó được nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát phổ nhạc, rồi lan tỏa rộng rãi trong giới trí thức, học sinh, sinh viên. Nhiều thập kỷ sau, ca khúc vẫn sống tiếp trong đời sống âm nhạc qua các bản phổ của Phạm Duy và tiếng hát của Thanh Thúy, Khánh Hà, Ý Lan, Thái Hiền…

Không chỉ là nhà thơ, Đoàn Phú Tứ còn góp phần đặt những viên gạch đầu tiên cho nền kịch nói nước nhà. Chỉ trong vòng mười năm thời trẻ, ông sáng tác gần 20 vở kịch. Năm 1937, khi mới 27 tuổi, ông gây tiếng vang lớn với Ngã ba và ***** Cuội ngồi gốc cây đa, sánh ngang các tên tuổi như Thế Lữ, Vũ Đình Long. Ông cùng bạn bè lập Ban kịch Tinh Hoa, đồng thời làm chủ bút tờ báo cùng tên, tạo nên một không khí sôi động cho sân khấu Việt Nam đầu thập niên 1940.

Năm 1942, Đoàn Phú Tứ là một trong sáu thành viên sáng lập nhóm Xuân Thu Nhã Tập, cùng Nguyễn Xuân Sanh, Nguyễn Lương Ngọc, Nguyễn Xuân Khoát, Nguyễn Đỗ Cung và Phạm Văn Hạnh. Nhóm hướng tới đổi mới sáng tác văn học – nghệ thuật, từ cái “tôi” cá nhân hướng tới cái “ta” cộng đồng, tìm cách vượt ra khỏi lối mòn sáng tác thời bấy giờ.

Sau Cách mạng Tháng Tám, ở tuổi 35, Đoàn Phú Tứ gia nhập kháng chiến, trở thành đại biểu Quốc hội khóa I và đảm nhiệm nhiều cương vị: giảng dạy ở Trường Nghệ thuật Liên khu IV, Liên khu V, viết kịch và làm báo ở Thanh Hóa. Năm 1948, ông về Thái Nguyên, phụ trách Tạp chí Văn nghệ của Hội Văn nghệ Việt Nam và tham gia Thường vụ Đoàn Sân khấu Việt Nam. Thời gian này, ông vừa sáng tác, vừa đi thực tế lấy chất liệu, xuất bản tập kịch Trở về năm 1949, phản ánh tinh thần chiến đấu và hy sinh của quân dân kháng chiến.

Một bước ngoặt bất ngờ xảy ra năm 1950 tại Việt Bắc. Khi nhận thiệp mời dự đám cưới của một cán bộ Cục Quân nhu, Đoàn Phú Tứ biết người chủ hôn chính là Đại tá Trần Dụ Châu – Cục trưởng Cục Quân nhu. Vốn đã nghe nhiều điều tiếng về sự tham nhũng, bớt xén quân trang, quân dụng của vị sĩ quan này, nhà thơ vẫn phải đến dự.

Tiệc cưới diễn ra xa hoa bất thường giữa bối cảnh chiến khu: lợn gà chất đầy, sơn hào hải vị, rượu tây, thuốc lá ngoại… Nhiều người dân còn đùa rằng nước sông hôm đó cũng ngọt vì mỡ thịt trôi xuống. Giữa ánh sáng của hàng trăm ngọn nến và tiếng nhạc sống trong đình lớn ở Phú Bình (Thái Nguyên), Trần Dụ Châu yêu cầu nhà thơ sáng tác ngay một bài ca ngợi hôn lễ.

Đoàn Phú Tứ đứng dậy, nghẹn giọng, đọc rõ từng chữ:

“Bữa tiệc chúng ta sắp chén đẫy hôm nay
Được dọn bằng xương máu của chiến sĩ.”

Không khí lặng đi. Trần Dụ Châu nổi giận quát mắng, thuộc hạ của ông ta tát vào mặt nhà thơ. Đoàn Phú Tứ lập tức rời tiệc, rồi trong đêm, viết thư gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh, tố cáo những hành vi tham nhũng của Trần Dụ Châu, kèm theo chứng cứ và dư luận trong quân đội.

Kết quả, vụ việc được điều tra, và với những chứng cứ không thể chối cãi, Trần Dụ Châu bị kết án tử hình. Đây được coi là vụ án tham nhũng lớn đầu tiên trong Chính phủ kháng chiến.

Sự việc đã khắc họa Đoàn Phú Tứ không chỉ là một thi sĩ lãng mạn, mà còn là người dám đối diện cái xấu, bảo vệ kỷ cương của cách mạng. Tuy vậy, sau biến cố ấy, ông gần như dừng hẳn sáng tác văn chương, khép lại một chặng đường rực rỡ của mình trên thi đàn và sân khấu Việt Nam.
 


Đăng nhập một lần thảo luận tẹt ga
Back
Top