Quốc hội sáng nay 28/11/2024 đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân Nhân dân Việt Nam, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/12/2024.
Đồng thời, đề nghị nâng cấp bậc quân hàm đối với cấp cơ sở; bổ sung cấp bậc quân hàm cao nhất đối với chức vụ, chức danh của cơ quan quân sự cấp tỉnh, cấp huyện; quy định trần quân hàm tương đồng giữa Quân đội và Công an ở cấp huyện.
Về các nội dung nêu trên, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết, thực hiện Kết luận của Bộ Chính trị tại Thông báo số 185-TB/TW ngày 28/10/2014: Quân đội không quá 415 vị trí có trần quân hàm cấp Tướng; Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã quán triệt và thực hiện nghiêm túc chủ trương của Bộ Chính trị, Luật Sĩ quan Quân đội nhân Nhân dân Việt Nam và Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội bảo đảm số lượng vị trí có cấp bậc quân hàm cấp tướng theo quy định.
Nếu bổ sung số lượng Thượng tướng cho chức vụ Phó tổng Tham mưu trưởng và quy định trần quân hàm cấp tướng cho Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy quân sự của 11 tỉnh trọng điểm như Luật Công an nhân dân (không quy định trần quân hàm cấp tướng cho Chính ủy) thì không phù hợp với Nghị quyết số 51-NQ/TW và vượt quá số lượng cấp tướng theo quy định của Bộ Chính trị.
Như vậy, sẽ tác động đến tư tưởng, tâm tư nguyện vọng của Chỉ huy trưởng, Chính ủy Bộ chỉ huy quân sự, Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng các tỉnh, thành phố khác và các chức danh tương đương khác trong toàn quân như Sư đoàn trưởng, Chính ủy Sư đoàn.
Mặt khác, không bảo đảm nguyên tắc cấp bậc quân hàm sĩ quan của cấp trên cao hơn cấp bậc quân hàm sĩ quan của cấp dưới, dẫn đến bất cập trong chỉ đạo, điều hành thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng.
Hiện nay, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đang nghiên cứu, đề xuất sửa đổi Nghị định và sửa đổi Thông tư về chức vụ, chức danh của sĩ quan Quân đội nhân Nhân dân Việt Nam.
Trong đó xem xét, tính toán kỹ lưỡng cấp bậc quân hàm cao nhất của sĩ quan trong toàn quân, bổ sung quy định cụ thể số lượng và từng vị trí có cấp bậc quân hàm Trung tướng, Phó đô đốc Hải quân và Thiếu tướng, Chuẩn Đô đốc Hải quân bảo đảm chặt chẽ, minh bạch và không vượt quá số lượng theo kết luận của Bộ Chính trị.
Đồng thời, sửa đổi những nội dung về chức vụ, chức danh tương đương có cấp bậc quân hàm cao nhất là cấp tướng, cấp tá, cấp úy, bảo đảm chặt chẽ, phù hợp với nội dung sửa đổi tại dự thảo luật và cơ cấu, tổ chức biên chế, tính chất nhiệm vụ, tình hình thực tiễn của các cơ quan, đơn vị trong toàn quân.
Về khoản 5 Điều 1 (Sửa đổi, bổ sung Điều 18 - Thăng quân hàm, nâng lương sĩ quan trước thời hạn), theo báo cáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân Nhân dân Việt Nam, ngày 26/11/2024, Chính phủ có Công văn số 812/CP tham gia ý kiến về dự thảo luật.
Chính phủ có góp ý tại khoản 5 Điều 1 (sửa đổi, bổ sung Điều 18. Thăng quân hàm, nâng lương sĩ quan trước thời hạn), đề nghị sửa đổi như sau: “a) Trong chiến đấu lập chiến công xuất sắc hoặc trong công tác được khen thưởng” vì tại khoản 3 Điều này đã giao Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định cụ thể theo thẩm quyền nên chỉnh lý như trên để bảo đảm linh hoạt, không quy định những vấn đề cụ thể trong luật và phù hợp với quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng.
Về vấn đề này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy, lý do Chính phủ đề xuất chỉnh lý là có cơ sở, luật chỉ quy định những nguyên tắc chung và giao Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định cụ thể theo thẩm quyền.
Quy định này không mâu thuẫn, chồng chéo với pháp luật có liên quan, bảo đảm phù hợp với các quy định khác liên quan trong dự thảo luật và với pháp luật về thi đua, khen thưởng, thuận lợi trong tổ chức thực hiện.
Để bảo đảm chặt chẽ và có sự đồng thuận cao, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo cơ quan chủ trì thẩm tra chủ trì, phối hợp với cơ quan soạn thảo và các cơ quan liên quan họp nghiên cứu và thống nhất tiếp thu sửa đổi điểm a khoản 1 Điều 18 Luật Sĩ quan Quân đội nhân Nhân dân Việt Nam như đề nghị của Chính phủ.
Đồng thời, do đây là nội dung mới, nên Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo xin ý kiến và đã được sự nhất trí của các đồng chí thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Vì vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội cho quy định như dự thảo luật trình Quốc hội thông qua.
Về khoản 14 Điều 1 (bổ sung khoản 5 vào sau khoản 4 Điều 47 - Trách nhiệm của chính quyền địa phương các cấp), một số ý kiến đề nghị đánh giá quy định này để bảo đảm thống nhất, đồng bộ với Luật Nhà ở, Luật Đất đai, Luật Quy hoạch; đánh giá những bất cập về trình tự, thủ tục theo quy định của Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Quy hoạch nếu giao cho lực lượng Quân đội thực hiện; làm rõ nguồn lực để thực hiện, khó khăn, vướng mắc về thẩm quyền, trình tự, thủ tục thực hiện chính sách về nhà ở cho lực lượng vũ trang nhân dân.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông tin: Luật Đất đai, Luật Nhà ở giao UBND cấp tỉnh lập kế hoạch phát triển nhà ở cho lực lượng vũ trang nhưng chưa quy định việc bố trí quỹ đất và thu hồi đất để giao cho Bộ Quốc phòng thực hiện, trong khi Bộ Quốc phòng có các cơ quan chuyên môn về đầu tư, xây dựng, đủ năng lực để quản lý và triển khai thực hiện.
Vì vậy, cần có “cơ chế đặc biệt” để Bộ Quốc phòng triển khai thực hiện trên thực tế; việc chỉnh lý như dự thảo luật là bổ sung chủ thể thực hiện chính sách, pháp luật về nhà ở xã hội cho Quân đội, giảm khó khăn, áp lực cho chính quyền địa phương và đáp ứng nhu cầu cấp bách về nhà ở cho các đối tượng trong Quân đội là phù hợp với thực tiễn.
Trên cơ sở ý kiến đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉnh lý, bổ sung khoản 13 Điều 1 như dự thảo luật trình Quốc hội thông qua.
Về việc sửa đổi quy định tại Điều 25 Luật Công an nhân dân trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân Nhân dân Việt Nam, có ý kiến đề nghị sửa đổi Điều 25 Luật Công an nhân dân để thống nhất về thẩm quyền quy định cụ thể vị trí có cấp bậc quân hàm cao nhất là Trung tướng, Thiếu tướng và cấp bậc hàm đối với các chức vụ, chức danh của sĩ quan là cấp tướng của đơn vị thành lập mới, đơn vị được tổ chức lại.
Trên cơ sở ý kiến đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo cơ quan chủ trì thẩm tra phối hợp với cơ quan soạn thảo, các cơ quan của Quốc hội, Bộ Công an và các cơ quan hữu quan thống nhất bổ sung 1 Điều (Điều 2) sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công an nhân dân số 37/2018/QH14 được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 21/2023/QH15 gồm 2 khoản: Khoản 1: Sửa đổi, bổ sung Điều 25 và khoản 2: Sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 29 như dự thảo luật trình Quốc hội thông qua.
Thiếu tá: 52;
Trung tá: 54;
Thượng tá: 56;
Đại tá: 58;
Cấp tướng: 60
- Thượng tướng, Đô đốc Hải quân, số lượng không quá 14, bao gồm: Thứ trưởng Bộ Quốc phòng có cấp bậc quân hàm cao nhất là Thượng tướng, Đô đốc Hải quân: số lượng không quá 6; Phó tổng Tham mưu trưởng, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị: Mỗi chức vụ số lượng không quá 3; Giám đốc, Chính ủy Học viện Quốc phòng;
- Các chức vụ, chức danh có cấp bậc quân hàm cao nhất là Trung tướng, Phó đô đốc Hải quân; Thiếu tướng, Chuẩn Đô đốc Hải quân: số lượng không quá 398.
Cấp bậc quân hàm cao nhất đối với chức vụ của sĩ quan
Về khoản 3 Điều 1 (sửa đổi, bổ sung Điều 15 - Cấp bậc quân hàm cao nhất đối với chức vụ của sĩ quan), theo báo cáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân Nhân dân Việt Nam, một số ý kiến đề nghị cân nhắc quân hàm cấp tướng tương xứng giữa Quân đội và Công an ở các tỉnh, thành phố lớn, trọng điểm; quy định rõ số lượng cấp tướng đối với từng cấp hàm; quy định cấp bậc quân hàm cao nhất từ Trung tướng trở xuống (điểm c, điểm d) như luật hiện hành.Đồng thời, đề nghị nâng cấp bậc quân hàm đối với cấp cơ sở; bổ sung cấp bậc quân hàm cao nhất đối với chức vụ, chức danh của cơ quan quân sự cấp tỉnh, cấp huyện; quy định trần quân hàm tương đồng giữa Quân đội và Công an ở cấp huyện.
Về các nội dung nêu trên, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết, thực hiện Kết luận của Bộ Chính trị tại Thông báo số 185-TB/TW ngày 28/10/2014: Quân đội không quá 415 vị trí có trần quân hàm cấp Tướng; Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã quán triệt và thực hiện nghiêm túc chủ trương của Bộ Chính trị, Luật Sĩ quan Quân đội nhân Nhân dân Việt Nam và Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội bảo đảm số lượng vị trí có cấp bậc quân hàm cấp tướng theo quy định.
Nếu bổ sung số lượng Thượng tướng cho chức vụ Phó tổng Tham mưu trưởng và quy định trần quân hàm cấp tướng cho Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy quân sự của 11 tỉnh trọng điểm như Luật Công an nhân dân (không quy định trần quân hàm cấp tướng cho Chính ủy) thì không phù hợp với Nghị quyết số 51-NQ/TW và vượt quá số lượng cấp tướng theo quy định của Bộ Chính trị.
Như vậy, sẽ tác động đến tư tưởng, tâm tư nguyện vọng của Chỉ huy trưởng, Chính ủy Bộ chỉ huy quân sự, Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng các tỉnh, thành phố khác và các chức danh tương đương khác trong toàn quân như Sư đoàn trưởng, Chính ủy Sư đoàn.
Mặt khác, không bảo đảm nguyên tắc cấp bậc quân hàm sĩ quan của cấp trên cao hơn cấp bậc quân hàm sĩ quan của cấp dưới, dẫn đến bất cập trong chỉ đạo, điều hành thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng.
Hiện nay, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đang nghiên cứu, đề xuất sửa đổi Nghị định và sửa đổi Thông tư về chức vụ, chức danh của sĩ quan Quân đội nhân Nhân dân Việt Nam.
Trong đó xem xét, tính toán kỹ lưỡng cấp bậc quân hàm cao nhất của sĩ quan trong toàn quân, bổ sung quy định cụ thể số lượng và từng vị trí có cấp bậc quân hàm Trung tướng, Phó đô đốc Hải quân và Thiếu tướng, Chuẩn Đô đốc Hải quân bảo đảm chặt chẽ, minh bạch và không vượt quá số lượng theo kết luận của Bộ Chính trị.
Đồng thời, sửa đổi những nội dung về chức vụ, chức danh tương đương có cấp bậc quân hàm cao nhất là cấp tướng, cấp tá, cấp úy, bảo đảm chặt chẽ, phù hợp với nội dung sửa đổi tại dự thảo luật và cơ cấu, tổ chức biên chế, tính chất nhiệm vụ, tình hình thực tiễn của các cơ quan, đơn vị trong toàn quân.
Về khoản 5 Điều 1 (Sửa đổi, bổ sung Điều 18 - Thăng quân hàm, nâng lương sĩ quan trước thời hạn), theo báo cáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân Nhân dân Việt Nam, ngày 26/11/2024, Chính phủ có Công văn số 812/CP tham gia ý kiến về dự thảo luật.
Chính phủ có góp ý tại khoản 5 Điều 1 (sửa đổi, bổ sung Điều 18. Thăng quân hàm, nâng lương sĩ quan trước thời hạn), đề nghị sửa đổi như sau: “a) Trong chiến đấu lập chiến công xuất sắc hoặc trong công tác được khen thưởng” vì tại khoản 3 Điều này đã giao Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định cụ thể theo thẩm quyền nên chỉnh lý như trên để bảo đảm linh hoạt, không quy định những vấn đề cụ thể trong luật và phù hợp với quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng.
Về vấn đề này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy, lý do Chính phủ đề xuất chỉnh lý là có cơ sở, luật chỉ quy định những nguyên tắc chung và giao Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định cụ thể theo thẩm quyền.
Quy định này không mâu thuẫn, chồng chéo với pháp luật có liên quan, bảo đảm phù hợp với các quy định khác liên quan trong dự thảo luật và với pháp luật về thi đua, khen thưởng, thuận lợi trong tổ chức thực hiện.
Để bảo đảm chặt chẽ và có sự đồng thuận cao, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo cơ quan chủ trì thẩm tra chủ trì, phối hợp với cơ quan soạn thảo và các cơ quan liên quan họp nghiên cứu và thống nhất tiếp thu sửa đổi điểm a khoản 1 Điều 18 Luật Sĩ quan Quân đội nhân Nhân dân Việt Nam như đề nghị của Chính phủ.
Đồng thời, do đây là nội dung mới, nên Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo xin ý kiến và đã được sự nhất trí của các đồng chí thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Vì vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội cho quy định như dự thảo luật trình Quốc hội thông qua.
Về khoản 14 Điều 1 (bổ sung khoản 5 vào sau khoản 4 Điều 47 - Trách nhiệm của chính quyền địa phương các cấp), một số ý kiến đề nghị đánh giá quy định này để bảo đảm thống nhất, đồng bộ với Luật Nhà ở, Luật Đất đai, Luật Quy hoạch; đánh giá những bất cập về trình tự, thủ tục theo quy định của Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Quy hoạch nếu giao cho lực lượng Quân đội thực hiện; làm rõ nguồn lực để thực hiện, khó khăn, vướng mắc về thẩm quyền, trình tự, thủ tục thực hiện chính sách về nhà ở cho lực lượng vũ trang nhân dân.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông tin: Luật Đất đai, Luật Nhà ở giao UBND cấp tỉnh lập kế hoạch phát triển nhà ở cho lực lượng vũ trang nhưng chưa quy định việc bố trí quỹ đất và thu hồi đất để giao cho Bộ Quốc phòng thực hiện, trong khi Bộ Quốc phòng có các cơ quan chuyên môn về đầu tư, xây dựng, đủ năng lực để quản lý và triển khai thực hiện.
Vì vậy, cần có “cơ chế đặc biệt” để Bộ Quốc phòng triển khai thực hiện trên thực tế; việc chỉnh lý như dự thảo luật là bổ sung chủ thể thực hiện chính sách, pháp luật về nhà ở xã hội cho Quân đội, giảm khó khăn, áp lực cho chính quyền địa phương và đáp ứng nhu cầu cấp bách về nhà ở cho các đối tượng trong Quân đội là phù hợp với thực tiễn.
Trên cơ sở ý kiến đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉnh lý, bổ sung khoản 13 Điều 1 như dự thảo luật trình Quốc hội thông qua.
Về việc sửa đổi quy định tại Điều 25 Luật Công an nhân dân trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân Nhân dân Việt Nam, có ý kiến đề nghị sửa đổi Điều 25 Luật Công an nhân dân để thống nhất về thẩm quyền quy định cụ thể vị trí có cấp bậc quân hàm cao nhất là Trung tướng, Thiếu tướng và cấp bậc hàm đối với các chức vụ, chức danh của sĩ quan là cấp tướng của đơn vị thành lập mới, đơn vị được tổ chức lại.
Trên cơ sở ý kiến đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo cơ quan chủ trì thẩm tra phối hợp với cơ quan soạn thảo, các cơ quan của Quốc hội, Bộ Công an và các cơ quan hữu quan thống nhất bổ sung 1 Điều (Điều 2) sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công an nhân dân số 37/2018/QH14 được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 21/2023/QH15 gồm 2 khoản: Khoản 1: Sửa đổi, bổ sung Điều 25 và khoản 2: Sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 29 như dự thảo luật trình Quốc hội thông qua.
Hạn tuổi cao nhất của sĩ quan phục vụ tại ngũ (tuổi nghỉ hưu) theo cấp bậc quân hàm:
Cấp úy: 50;Thiếu tá: 52;
Trung tá: 54;
Thượng tá: 56;
Đại tá: 58;
Cấp tướng: 60
Cấp bậc quân hàm cao nhất đối với chức vụ, chức danh của sĩ quan được quy định như sau:
- Đại tướng, số lượng không quá 3, bao gồm: Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; Tổng Tham mưu trưởng; Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị;- Thượng tướng, Đô đốc Hải quân, số lượng không quá 14, bao gồm: Thứ trưởng Bộ Quốc phòng có cấp bậc quân hàm cao nhất là Thượng tướng, Đô đốc Hải quân: số lượng không quá 6; Phó tổng Tham mưu trưởng, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị: Mỗi chức vụ số lượng không quá 3; Giám đốc, Chính ủy Học viện Quốc phòng;
- Các chức vụ, chức danh có cấp bậc quân hàm cao nhất là Trung tướng, Phó đô đốc Hải quân; Thiếu tướng, Chuẩn Đô đốc Hải quân: số lượng không quá 398.