Theo quy định của pháp luật Việt Nam, việc đóng bảo hiểm xã hội (BHXH) là trách nhiệm của người sử dụng lao động. Người lao động không thể tự đóng BHXH.
Cụ thể, theo Khoản 1 Điều 21 Luật Bảo hiểm xã hội 2014, người sử dụng lao động có trách nhiệm:
Đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cho người lao động theo quy định của Luật này.
Phối hợp với cơ quan bảo hiểm xã hội trả sổ bảo hiểm xã hội cho người lao động, xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội khi người lao động chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc hoặc thôi việc theo quy định của pháp luật.
Trường hợp đơn vị chưa đóng đủ thì xác nhận sổ BHXH đến thời điểm đã đóng BHXH, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Sau khi thu hồi được số tiền đơn vị còn nợ thì xác nhận bổ sung trên sổ BHXH.
Như vậy, người lao động vẫn có thể được chốt sổ bảo hiểm khi doanh nghiệp nợ tiền đóng BHXH. Tuy nhiên, thực tế có trường hợp doanh nghiệp cố tình không đóng đủ tiền BHXH, BHTN, BHTNLĐ, BNN dẫn đến ảnh hưởng đến việc xác nhận thời gian tham gia bảo hiểm của người lao động.
Trong trường hợp này người lao động liên hệ với công ty để được giải quyết chốt sổ BHXH sau đó nhận lại sổ bảo hiểm xã hội (sổ đã chốt) mang nộp cho công ty mới để tiếp tục đóng và ghi nhận quá trình đóng bảo hiểm xã hội trên sổ bảo hiểm xã hội đó.
Như vậy, người sử dụng lao động có trách nhiệm đóng BHXH cho người lao động trong suốt thời gian làm việc. Nếu người sử dụng lao động không đóng BHXH cho người lao động, người lao động sẽ không được hưởng các chế độ BHXH theo quy định của pháp luật.Trường hợp người sử dụng lao động nợ tiền BHXH, người lao động có thể làm đơn khiếu nại hoặc khởi kiện ra tòa án để yêu cầu người sử dụng lao động đóng BHXH cho mình.Ngoài ra, người lao động cũng có thể tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện để bảo vệ quyền lợi của mình.