Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh: Cha “giải vây”, con “hội nhập“

H
Home Content

Nếu ông Nguyễn Cơ Thạch được coi là "kiến trúc sư" của giai đoạn ngoại giao “phá vây” thì ông Phạm Bình Minh (con trai ông Thạch) được xem là biểu tượng của nền ngoại giao Việt Nam thời hội nhập.


Ông Nguyễn Cơ Thạch (phải) đón tiếp Bộ trưởng Ngoại giao Pháp Rolang Duyma
“Con dòng, cháu giống”
Phạm Bình Minh là con út của ông Nguyễn Cơ Thạch (tức Phạm Văn Cương) và bà Phan Thị Phúc. Hai ông bà có 4 người con. Ông Nguyễn Cơ Thạch là người cha hết sức nghiêm khắc. Ông luôn đòi hỏi các con mình phải tự rèn luyện, phấn đấu để trưởng thành.
Ông Phạm Tuấn Phan, con trai cả của ông Thạch- bà Phúc, từng kể: “Năm 1971- 1972 có lệnh Tổng động viên, tôi được gọi nhập ngũ khi đang học lớp 10, ở tuổi 17. Dù biết tôi sẽ phải vào chiến trường “đỏ lửa” Quảng Trị, nhưng cha tôi không hề can thiệp. Ông cho rằng dù ông có ở cương vị gì đi chăng nữa thì chúng tôi- các con ông cũng phải có nghĩa vụ phụng sự đất nước như bao người khác. Sau ngày 30/4/1975, khi tôi đang học ở Liên Xô, cha tôi có gọi điện sang một lần và hỏi: “Con có muốn chuyển sang học Ngoại giao không?”. Tôi luôn ngưỡng mộ cha mình và công việc ông làm. Tôi cũng muốn được tiếp tục công việc mà ông theo đuổi. Nhưng lúc đó tôi là người của quân đội cử đi học, nghĩ rằng việc mình chuyển ngành có thể làm mất uy tín của cha, cuối cùng tôi vẫn quyết định ở lại trường Đại học Tổng hợp, dù tôi hiểu cha tôi hằng mong có một người con tiếp nối sự nghiệp của ông. Hai năm sau, em trai tôi, Phạm Bình Minh đã thực hiện được nguyện vọng ấy của cha”.

Đại gia đình ông Phạm Bình Minh
Còn bà Phan Thị Phúc thì kể: “Năm 1977, khi biết con trai út của chúng tôi thi đỗ vào Trường Đại học Bách khoa Hà Nội với số điểm rất cao, anh Thạch đã tâm sự với con trai: “Bố rất tâm huyết với công tác ngoại giao và thực lòng mong muốn trong 4 đứa có một người sẽ kế nghiệp”.
Thế là Phạm Bình Minh trở thành sinh viên của Học viện Quan hệ Quốc tế. Câu chuyện này cũng từng được chính Phó thủ tướng Phạm Bình Minh nhắc lại. Ông bảo: “Tôi luôn biết ơn bố tôi. Mong muốn của ông đã thôi thúc tôi phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện để làm một công việc đầy ý nghĩa”.
Cũng giống như với người con trai cả, ngoài việc chia sẻ với con những kinh nghiệm của mình, ông Nguyễn Cơ Thạch luôn khuyến khích Phạm Bình Minh tinh thần tự lập. Bà Phúc kể: “Khi Minh tốt nghiệp, lời khuyên đầu tiên của nhà tôi cho con là “Nếu cơ quan phân công cho con một công việc khó khăn, phức tạp thì không nên từ chối. Những việc khó sẽ giúp con người ta nhanh trưởng thành hơn”. Việc đầu tiên mà con tôi nhận khi trở thành nhân viên Bộ Ngoại giao là công tác ở tổ nhân quyền”.
Cũng theo bà Phúc thì thuở sinh thời ông Nguyễn Cơ Thạch, mặc dù công việc có lúc hết sức căng thẳng, nhưng ông vẫn luôn cố gắng dành mọi thời gian rảnh đề truyền dạy cho con trai mình những kinh nghiệm nghề nghiệp mà ông có, từ những vấn đề liên quan đến đường lối ngoại giao, kinh nghiệm đàm phán, đến nghệ thuật giao tiếp. “Chồng tôi luôn nói với con trai: “Làm ngoại giao, cái gì không nói được thì không nói, cái gì nói được thì phải nói thẳng, nói đến cùng”- Bà Phúc nhớ lại.
Sẽ là không đúng nếu nói ông Phạm Bình Minh chỉ chịu ảnh hưởng từ cha mình, mà trên thực tế, mẹ ông, mới là người “hun đúc” nên tính cách của ông. Chúng ta hãy nghe bà Phúc kể: “Chồng tôi thường phải đi công tác, có những chuyến công tác kéo dài cả năm trời, nên việc chăm sóc, dạy dỗ các con ngày nhỏ hầu như do tôi đảm nhiệm. Tôi vẫn dạy con, học để phụng sự đất nước, chứ không chỉ biết đến bản thân mình. Tôi yêu cầu các con đọc “Thép đã tôi thế đấy” của nhà văn Nga Oxtrốpxki, tôi thường kể cho các con nghe về tấm gương của những người anh hùng dân tộc”.
Mà chả riêng gì ông Minh. Ông Thạch cũng chịu ảnh hưởng rất nhiều từ bà. Bà Phúc từng tháp tùng ông Thạch chu du khắp thế giới, giúp ông tổng hợp và phân tích những thông tin đáng chú ý, mà vì công việc quá bận rộn không phải lúc nào ông cũng nắm hết được. Theo ông Phan Doãn Nam, trợ lý gần như trọn đời của ông Thạch kể lại rằng, ở năm cuối đời mình, có lần ông Nguyễn Cơ Thạch đã trìu mến nắm chặt tay và nói với vợ: “Sự nghiệp của anh có một nửa là của em”.

Ông Phạm Bình Minh (phải) và Thủ hiến bang Hessen Volker Bouffier (CHLB Đức)
Cha “giải vây”- con “hội nhập”
Có thể nói giai đoạn ông Nguyễn Cơ Thạch làm Bộ trưởng là một trong những giai đoạn khó khăn nhất trong lịch sử ngoại giao nước ta thời hiện đại. Với cương vị Bộ trưởng, ông Thạch cũng là nhà ngoại giao chịu nhiều áp lực nhất của Việt Nam. Giai đoạn ấy Việt Nam vừa phải đối mặt với chiến tranh biên giới phía Nam, vừa phải chống chọi với Trung Quốc trong cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc, cấm vận của Mỹ và bị hầu hết các nước trên thế giới cô lập.
Đó cũng là thời kỳ sự bế tắc trong quan hệ của Việt Nam và Trung Quốc lên đến đỉnh điểm. Là Ủy viên Bộ Chính trị phụ trách công tác đối ngoại, đồng thời đảm nhiệm cương vị Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao, mọi quyết sách ngoại giao, mọi gánh nặng trong lĩnh vực đối ngoại đều do ông đảm nhiệm.
Những chiến dịch chủ động, mạnh mẽ, đấu tranh dồn dập của Ngoại giao Việt Nam dưới sự lãnh đạo của ông đã góp phần rất quan trọng vào việc giải quyết dứt điểm vấn đề Campuchia (1991), bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc (1991), cải thiện quan hệ với các nước Đông Nam Á và gia nhập ASEAN (1995), Mỹ bỏ cấm vận (1994) và thiết lập quan hệ Ngoại giao với Việt Nam (1995).
Đại sứ Hoa Kỳ tại LHQ Sullivan đã từng nói: “Tôi luôn nghĩ rằng kỷ nguyên mới trong quan hệ Mỹ-Việt là tượng đài cho những cống hiến của ông Thạch”. Còn nhà ngoại giao Phan Doãn Nam thì viết: “Trong 11 năm làm Bộ trưởng, chính ông đã là người khởi động, đặt nền móng cho những kết quả ngoại giao vô cùng quan trọng. Đó cũng chính là một trong những lý do khiến ông được coi là “Bộ trưởng giải vây” của ngoại giao Việt Nam”.
Không ở vào giai đoạn bị “bế quan tỏa cảng” như cha mình, nhưng ông Phạm Bình Minh trở thành người đứng đầu ngành ngoại giao ở thời điểm Việt Nam vươn mạnh mẽ ra “biển lớn”. Có thể nói chưa bao giờ ngoại giao và hợp tác quốc tế của Việt Nam lại đạt được những thành tựu lớn lao như vậy.
Khuôn khổ quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện đã tạo ra nhiều cơ hội cho tăng cường hợp tác phục vụ phát triển. Việt Nam đã triển khai hiệu quả quan hệ với các đối tác chiến lược và đối tác toàn diện để phát triển nội lực hình thành những ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam. Thành công này có phần đóng góp rất quan trọng của Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh.
Bà Đại sứ trong cuộc đời ông Minh
Có một sự trùng hợp khá lý thú nữa là, trong sự thành công của ngành ngoại giao Việt Nam nói chung và sư nghiệp của ông Phạm Bình Minh nói riêng luôn có bóng dáng của một nhà ngoại giao nữ- bà Nguyễn Nguyệt Nga- vợ ông. Bà học cùng trường với ông Phạm Bình Minh, cũng có hơn 30 năm làm trong ngành ngoại giao, là nữ Vụ trưởng đầu tiên về kinh tế (Vụ Hợp tác kinh tế đa phương) ở Bộ Ngoại giao, được Chủ tịch nước phong hàm Đại sứ, là quan chức cao cấp của Việt Nam tại Diễn đàn Hợp tác Á- Âu (ASEM), Phó trưởng đoàn đàm phán chính phủ về kinh tế- thương mại, từng là Công sứ Đại sứ quán Việt Nam tại Mỹ.

Bà Nguyễn Nguyệt Nga - Phu nhân Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh
Công việc của bà và các đồng nghiệp Vụ Hợp tác kinh tế đa phương là tiên phong trong công cuộc hội nhập về chính sách, đem những ASEAN, ASEM, APEC, WTO, TPP và hàng loạt hiệp định thương mại tự do (FTA) về Việt Nam.
Theo bà Nga thì bà cũng chịu sự ảnh hưởng rất nhiều từ ông Nguyễn Cơ Thạch. Bà nói về người thủ trưởng, đồng thời cũng là bố chồng mình: “Ông là người có phong cách làm việc gần gũi và thiết thực, có nhiều ảnh hưởng đến thế hệ làm ngoại giao kế cận. Tôi đã học hỏi từ ông nhiều điều. Ông thường căn dặn chúng tôi: “Trung thực và chân thành là điều quyết định tạo nên uy tín của một nhà ngoại giao”.
Mặc dù công việc vô cùng bận rộn, nhưng mỗi khi có mặt ở nhà bà Nga tự tay chăm sóc gia đình. Bà bảo, bà thích nấu ăn, trong nhà bà không có người giúp việc. “Giữa gia đình và công việc, tôi xử lý việc gia đình trước. Gia đình chính là nơi tạo nguồn vui để tôi hoàn thành tốt công việc”- Bà Nga từng kể.
Với việc lập quan hệ đối tác chiến lược với Nga năm 2001, Việt Nam là một trong 5 nước tiên phong đầu tiên thiết lập quan hệ đối tác chiến lược. Cho tới nay, Việt Nam có quan hệ đối tác chiến lược với 13 quốc gia, quan hệ đối tác chiến lược theo lĩnh vực với 2 nước và quan hệ đối tác toàn diện với 11 nước khác.
Năm 2013, Việt Nam đã hoàn thành việc xác lập các khuôn khổ quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với tất cả 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an LHQ. Cùng với các mối quan hệ truyền thống, đặc biệt với các nước bạn láng giềng Lào, Campuchia, các nước trong Cộng đồng ASEAN, các khuôn khổ quan hệ nàđã góp phần tích cực triển khai hiệu quả quan hệ hợp tác mọi mặt của Việt Nam với các nước trên thế giới.
Theo Lê Thọ Bình/VietTimes
Back
Top