Cần đánh giá lại công tác dự báo, vận hành hồ chứa, mưa lũ dồn dập vừa qua bộc lộ nhiều vấn đề

B
Ánh Bình Minh
Phản hồi: 0

Ánh Bình Minh

Thành viên nổi tiếng
Ông Nguyễn Tùng Phong, Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi cho hay, những đợt mưa lũ dồn dập vừa qua đã bộc lộ nhiều vấn đề cần được đánh giá lại trong cả công tác dự báo lẫn tổ chức vận hành liên hồ.

Thực tế trên được ông Phong nêu ra tại Diễn đàn: “Chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ trong vận hành, bảo đảm an toàn đập, hồ chứa nước”, do Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) phối hợp với Báo Nông nghiệp và Môi trường tổ chức, chiều 21/11.

Bộc lộ nhiều vấn đề về dự báo và vận hành liên hồ

Theo Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi, cả nước hiện có hơn 7.300 đập, hồ chứa thủy lợi, giữ vai trò đảm bảo nước tưới, cấp nước sinh hoạt và tạo nguồn cho nhiều ngành kinh tế. Nhờ sự quan tâm của các cấp, mùa mưa lũ 2025 tuy diễn biến dữ dội nhưng không xảy ra sự cố lớn, các hồ lớn vận hành tương đối hợp lý.

Tuy nhiên, đằng sau đó là hàng loạt khó khăn kéo dài, đặc biệt ở nhóm hồ vừa và nhỏ do địa phương quản lý. Tỷ lệ thực hiện các yêu cầu bắt buộc về an toàn đập vẫn rất thấp: chỉ 30% hồ có phương án ứng phó khẩn cấp, 9% được kiểm định an toàn và chỉ 19% lắp thiết bị quan trắc. Nhiều hồ chưa có quy trình vận hành hoặc mốc bảo vệ, dẫn đến nguy cơ mất an toàn khi mưa lũ đến bất ngờ.

Thách thức lớn nhất hiện nay là thiếu dữ liệu kỹ thuật đầy đủ và hệ thống công nghệ đồng bộ. Cơ sở dữ liệu hồ chứa của Bộ được xây dựng từ năm 2016 nhưng mới khoảng 900 hồ có thông số đầy đủ. Hầu hết các địa phương vẫn quản lý thủ công bằng Excel hoặc tài liệu rời rạc; dữ liệu không được cập nhật, không liên thông, khiến việc tổng hợp phục vụ chỉ đạo gặp rất nhiều khó khăn. Hệ thống quan trắc khí tượng thủy văn chuyên dùng còn thiếu và lạc hậu; nhiều hồ thiếu trạm mưa trên toàn lưu vực, số liệu quan trắc không ổn định.


Ông Nguyễn Tùng Phong, Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi cho hay, những đợt mưa lũ dồn dập vừa qua đã bộc lộ nhiều vấn đề cần được đánh giá lại trong cả công tác dự báo lẫn tổ chức vận hành liên hồ.

Trong khi đó, mưa lũ những năm gần đây diễn biến trái quy luật, bão xuất hiện dồn dập. Không gian thoát lũ bị thu hẹp bởi đô thị hóa nhanh, hạ tầng tiêu thoát chưa theo kịp. Phối hợp vận hành liên hồ vẫn là “điểm mù” lớn: hồ thủy điện và thủy lợi chia sẻ dữ liệu hạn chế, chưa có cơ chế điều phối thống nhất theo lưu vực. Quy trình vận hành nhiều hồ đã lạc hậu nhưng chưa được cập nhật vì thiếu công cụ, thiếu dữ liệu thời gian thực.

Khả năng tiêu thoát nước và chống ngập của nhiều vùng hạ du đang vượt ngưỡng chịu đựng, trong khi hệ thống cảnh báo ở các hồ nhỏ vẫn chủ yếu thủ công. Hạ tầng công nghệ thông tin không đủ mạnh để xử lý dữ liệu lớn; nguồn lực đầu tư quá hạn chế, mới đáp ứng khoảng 11,8% nhu cầu bảo trì và chủ yếu dùng để sửa chữa công trình, không có kinh phí cho công nghệ.

1763734479155.png
Những ngày qua, hàng loạt các tỉnh miền Trung bị ngập lụt do mưa lớn, và các nhà máy thủy điện xả lũ đồng loạt.

TS. Nguyễn Văn Mạnh, Trưởng phòng Khoa học Công nghệ (Viện Quy hoạch Thủy lợi), cho hay, cả nước có khoảng 6.800 hồ chứa, nhưng chỉ 300 hồ chiếm tới 80% dung tích điều tiết và mới khoảng 200 hồ có cửa van chủ động. Trong khi đó, mưa lũ cực đoan giai đoạn 2024-2025 tiếp tục đặt ra sức ép lớn, buộc ngành thủy lợi phải cải thiện năng lực dự báo, giám sát và điều hành.

Ông Nguyễn Tùng Phong, Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi cho biết, những đợt mưa lũ dồn dập vừa qua đã bộc lộ nhiều vấn đề cần được đánh giá lại trong cả công tác dự báo lẫn tổ chức vận hành liên hồ.

"Liệu có nên duy trì mực nước hồ ở mức dâng bình thường như quy trình hiện hành, hay cần hạ thấp hơn để tăng dung tích đón lũ trong bối cảnh thời tiết ngày càng bất thường?", ông Phong nêu câu hỏi.

Theo ông, quyết định mực nước trước lũ phải dựa trên cơ sở khoa học vì nó liên quan trực tiếp đến an toàn công trình, an toàn hạ du và nhu cầu tích nước cho sản xuất. Thực tế các trận lũ gần đây cho thấy khoảng dung tích phòng lũ đang không đủ dư địa như trước.

1763734537527.png

Chiều ngày 19/11, thông tin từ Công ty Thủy điện Sông Ba Hạ, tỉnh Đắk Lắk (địa phận tỉnh Phú Yên trước đây) cho biết, lúc 13 giờ 20, lưu lượng nước về hồ chứa của công ty ở mức 14.100 m3/s.

Nhấn mạnh vai trò của dự báo, ông Phong cho rằng, hiện nhiều đơn vị vẫn phụ thuộc vào các mô hình dự báo quốc tế, trong khi các nhà khoa học đã khuyến cáo cần có mô hình dự báo chuyên dụng cho từng lưu vực hồ chứa. Đây là điều kiện tiên quyết để nâng cao độ chính xác của dự báo trong bối cảnh biến đổi khí hậu làm cho mưa lũ khó lường hơn và dễ vượt ra ngoài các thông số thiết kế cũ.

Đề cập đến dung tích và khả năng phối hợp liên hồ, ông cho biết tổng dung tích của hơn 7.000 hồ thủy lợi chỉ khoảng 15,5 tỷ m3, trong khi nhiều hồ thủy điện có dung tích lớn gấp nhiều lần. Do đó, nếu hệ thống thủy điện tham gia tích cực hơn vào nhiệm vụ phòng chống lũ, hiệu quả bảo vệ hạ du sẽ được tăng lên đáng kể, nhất là trong các trận mưa lớn “lịch sử”.

Đề xuất gắn mã định danh đối với các công trình thủy lợi, hồ đập

Theo ông Đặng Duy Hiển, Phó Cục trưởng Cục Chuyển đổi số (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), để giúp tăng cường phối hợp liên hồ, liên ngành, cần nâng cao khả năng ra quyết định dựa trên dữ liệu và giảm thiểu chi phí, rủi ro vận hành. Theo đó, trong kỷ nguyên số, việc ứng dụng công nghệ thông tin không đồng nghĩa với chuyển đổi số. Vì vậy, đối với các công trình thủy lợi, hồ đập cần được gắn mã định danh riêng để quản lý chặt chẽ, minh bạch.

Việc chuyển đổi số phải bắt đầu từ số hóa dữ liệu hiện hữu, đảm bảo các thông tin phải đúng, đủ, sạch, sống và thống nhất, lấy trực tiếp từ nguồn, tránh dữ liệu sai lệch hoặc không chính xác. Khi có dữ liệu chuẩn và đầy đủ, hệ thống quản lý sẽ giúp giám sát, vận hành và điều phối hồ đập theo thời gian thực, hỗ trợ dự báo lũ, cắt giảm lũ hiệu quả cho hạ du, tối ưu khai thác nước tưới, nước sinh hoạt và thủy điện.

1763734553033.png

Ông Đặng Duy Hiển, Phó Cục trưởng Cục Chuyển đổi số (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đề xuất xuất gắn mã định danh đối với các công trình thủy lợi, hồ đập.

Ông Phan Tiến An, Trưởng phòng An toàn hồ đập và hồ chứa nước (Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi) cho rằng, cần thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ trong toàn bộ chuỗi quản lý hồ chứa. Trước hết là hoàn thiện thể chế, sửa đổi các quy định pháp lý, ban hành tiêu chuẩn chung cho cơ sở dữ liệu, quan trắc và phần mềm vận hành. Cơ sở dữ liệu ngành phải được chuẩn hóa và vận hành theo nguyên tắc dùng chung, cho phép địa phương dùng phần mềm riêng nhưng bắt buộc kết nối qua API chuẩn.

Song song đó, cần đầu tư hoặc thuê dịch vụ quan trắc hiện đại, xây dựng hệ thống cảnh báo tự động, nâng cao năng lực cán bộ trong phân tích dữ liệu và vận hành công nghệ mới. Việc bổ sung định mức kinh tế - kỹ thuật cho đầu tư IoT, phần mềm giám sát, AI và điện toán đám mây sẽ tạo cơ sở để các địa phương lập dự toán và triển khai thống nhất hơn.

1763734571359.png

Ông Phan Tiến An, Trưởng Phòng An toàn hồ đập và hồ chứa nước (Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi, Bộ Nông nghiệp và Môi trường).

Còn theo PGS.TS Hoàng Thái Đại, dù thiết bị hay phần mềm tiên tiến đến đâu thì vai trò của quản lý nhà nước vẫn là yếu tố quyết định. Nhà nước phải đứng ra điều phối, thống nhất quản lý tài nguyên nước và hệ thống hồ đập từ Trung ương đến địa phương; ban hành các quy chuẩn, quy trình, định mức kinh tế - kỹ thuật; đồng thời tổ chức đào tạo đội ngũ cán bộ đủ năng lực vận hành công nghệ mới. Đào tạo nhân lực chất lượng cao không chỉ dành cho cơ quan quản lý mà còn cho các doanh nghiệp khai thác công trình thủy lợi và các đơn vị vận hành ở địa phương.

Ông Đại nhắc lại bài học về những xung đột vận hành giữa thủy điện và thủy lợi giai đoạn trước, khi hai ngành hoạt động tách rời, mỗi bên có một mục tiêu. Theo ông, trong bối cảnh mới, khi Bộ Nông nghiệp và Môi trường thống nhất quản lý tài nguyên nước và công trình thủy lợi, cần phối hợp chặt chẽ hơn nữa với Bộ Công Thương và Bộ Xây dựng để xử lý các vấn đề liên ngành. Ông cho rằng chỉ khi có cơ quan điều phối thống nhất, kết hợp với dữ liệu đầy đủ và hạ tầng quan trắc đồng bộ thì các chính sách vận hành liên hồ mới đi vào thực chất.

Nguồn: Dân Việt
 


Đăng nhập một lần thảo luận tẹt ga
Back
Top