Thống đốc Ngân hàng Nhà nước tiết lộ dư nợ tín dụng/GDP đạt 134%. Điều đó nghĩa là gì?

vnrcraw4
Chi Le
Phản hồi: 1

Chi Le

Thành viên nổi tiếng
Ngày 19/6, tại kỳ họp Quốc hội, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng trả lời chất vấn các đại biểu Quốc hội liên quan đến vấn đề điều hành ngân hàng và tài chính. Bà cho biết tỷ lệ dư nợ tín dụng/GDP cuối năm 2024 đã lên tới mức 134%, nghĩa là tổng số tiền mà toàn nền kinh tế đang vay qua hệ thống ngân hàng đã vượt xa quy mô của cả nền kinh tế.
1750660014523.png

Vậy thì sao? nước nào mà chẳng phải vay vốn ngân hàng để sản xuất kinh doanh? mà sao ở ta đã phải mức cảnh báo?

Ai cũng phải công nhận điều này: ở đâu cũng vay vốn ngân hàng để làm ăn, đầu tư, phát triển, đó là chuyện bình thường trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, điều quan trọng là mức độ vay và hiệu quả sử dụng vốn - tức là vay như thế nào, dùng vào đâu, và tạo ra bao nhiêu giá trị từ số vốn đó. Mức độ thông thường là dưới 100% GDP.

Vay nhiều, nhưng hiệu quả sử dụng đồng vốn chưa cao. Điều này thể hiện qua chỉ sổ ICOR (chỉ số đo hiệu quả sử dụng vốn đầu tư) của Việt Nam cao, nghĩa là: để có được 1 đồng tăng trưởng, Việt Nam phải đầu tư nhiều hơn so với các nước khác.

Câu hỏi đặt ra tiếp theo là doanh nghiệp trong nước vay nhiều vậy mà sao hiệu quả đồng vay chưa cao?

Câu trả lời có lẽ nhiều người có thể nhìn thấy ngay, mặc dù nó phức tạp hơn những gì ta nhìn thấy. Hiệu quả sử dụng vốn chưa cao vì phần lớn tiền không chảy vào sản xuất hiệu quả mà bị "kẹt" ở những nơi sinh lời thấp hoặc chậm. Nhiều doanh nghiệp vay vốn để đầu cơ bất động sản, mua đất chờ giá tăng thay vì đầu tư công nghệ, mở rộng sản xuất. Trong khi đó, các dự án đầu tư công thì triển khai chậm, bị đội vốn, khiến tiền giải ngân rồi nhưng không tạo ra tăng trưởng ngay. Phần lớn doanh nghiệp lại nhỏ, yếu, năng suất thấp nên vay được mà làm ăn không hiệu quả, lợi nhuận không đủ để hoàn vốn tốt. Thêm vào đó, hệ thống tín dụng phân bổ vốn chưa đều... Tất cả những điều đó khiến kinh tế phải vay rất nhiều mà tăng trưởng tạo ra lại không tương xứng.

Do đó, không phải ngẫu nhiên Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cảnh báo rằng việc tiếp tục xu hướng này sẽ tiềm ẩn rủi ro hệ thống và gây hệ lụy cho nền kinh tế, khiến Việt Nam khó có thể vừa tăng trưởng cao bền vững.

Vậy giải pháp là gì?

Thống đốc Nguyễn Thị Hồng khuyến nghị cần hướng đến mở rộng các kênh vốn khác. Cụ thể, phải “làm mới” các động lực tăng trưởng như khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, đầu tư công hiệu quả hơn... Với đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI, phải có chiến lược thu hút FDI mới, tập trung vào chuyển giao công nghệ và kết nối doanh nghiệp nội địa thay vì chỉ lấy vốn.

Tôi hoàn toàn đồng tình với quan điểm của Thống đốc Nguyễn Thị Hồng. Một nền kinh tế muốn phát triển bền vững phải dựa vào nội lực – đặc biệt là sản xuất dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Khi doanh nghiệp tự nâng cao năng suất, làm ra sản phẩm chất lượng cao, có giá trị gia tăng lớn và cạnh tranh được trên thị trường quốc tế, thì tăng trưởng mới thực sự vững chắc và lâu dài.

Việc thu hút FDI cũng cần thay đổi tư duy. Thay vì chỉ mừng vì có dòng tiền đổ vào, ta cần chủ động chọn lọc nhà đầu tư có công nghệ tiên tiến, sẵn sàng chia sẻ tri thức và hợp tác với doanh nghiệp trong nước. Chỉ khi doanh nghiệp nội địa học được công nghệ, kỹ năng quản lý, và từng bước tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu thì FDI mới trở thành bàn đạp giúp Việt Nam phát triển từ bên trong, thay vì lệ thuộc bên ngoài.

Đó mới là con đường tăng trưởng thực chất và bền vững.
 
Nếu các nhà đầu tư vay vốn Ngân hàng nhiều nhưng hiệu quả thấp, dẫn đến thua lỗ , phá sản hàng loạt . Tỉ lệ dư nợ 134%, là Số nợ khổng lồ sẽ giải quyết ra sao . Tình huống này sẽ dẫn đến hàng loạt Doanh nghiệp vỡ nợ , nền kinh tế bị khủng hoảng nặng nề .. Chính phủ, Thống đốc Ngân hàng NN.. cần có phương án dự phòng xấu nhất có thể xẩy ra .
 


Đăng nhập một lần thảo luận tẹt ga

, 23/06/2025

Back
Top