Hồng Chương
Thành viên nổi tiếng
Ninh Bình là một tỉnh ven biển, thuộc cực Nam của đồng bằng châu thổ sông Hồng. Cách đây hàng vạn năm đã có con người sinh sống. Trải qua quá trình biến thiên của lịch sử dân tộc; vùng đất Ninh Bình đã nhiều lần thay đổi tên gọi và điều chỉnh đơn vị hành chính
1. Thời Bắc thuộc và chống Bắc thuộc
Đất Ninh Bình đời Tần (221 TCN - 207 TCN), thuộc Tượng Quận. Đời Hán (206 TCN - 220), thuộc quận Giao Chỉ, từ đời Ngô, Tấn (222-422) về sau thuộc châu Giao, cuối đời Lương (543) là Trường Châu. Quận Giao Chỉ gồm 10 huyện. Đất Ninh Bình nằm trong các huyện Câu Lậu và một phần huyện Vô Công hay Vô Thiết, huyện địa đầu quận Cửu Chân. Đất Nho Quan và Gia Viễn thời Tần - Hán (221 TCN - 220) thuộc huyện Vô Công, địa đầu của quận Giao Chỉ.
Ninh Bình từ đời Ngô, Tấn (222 - 442) về sau là đất Giao Châu, cuối nhà Lương (543) là Trường Châu. Dưới thời Tuỳ, Đường (603 - 936), đất Ninh Bình nằm trong quận Giao Chỉ thuộc An Nam. Năm thứ 2, niên hiệu Tổng Chương nhà Đường (669), đặt ra châu Phúc Lộc, bắt đầu từ đấy mới có đất Nhu Viễn, sau đổi là An Viễn (Gia Viễn ngày nay).
2. Thời Đinh - Tiền Lê - Lý (968 -1225)
a) Đất Ninh Bình thời Đinh - Tiền Lê (968 - 1009): Đinh Tiên Hoàng chia nước ra làm 10 đạo. Nhà Tiền Lê (980 -1009) cho đổi 10 đạo của nhà Đinh thành lộ, phủ, châu. Đất Ninh Bình thời kỳ này là kinh đô Hoa Lư.
b) Đất Ninh Bình Thời Lý (1010¬1226): Lý Công Uẩn lên ngôi vua, lập ra triều Lý, thay triều Tiền Lê (1010), chia cả nước ra làm 24 lộ, nhưng chỉ thấy sử cũ ghi danh sách có 12 lộ. Về phủ thì các sách Việt Sử lược và Toàn thư chép: Phủ Trường Yên do thành Hoa Lư đổi ra, còn gọi là châu Đại Hoàng.
3. Thời Trần và Hồ (1226 -1406)
Năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 11 (1242), Trần Thái Tông cho đổi 24 lộ của nhà Lý làm 12 lộ, nhưng cũng không thấy chép danh sách các lộ. Đất Ninh Bình thuộc lộ Trường Yên, do nhà Trần cho đổi phủ Trường Yên của nhà Lý thành lộ Trường Yên, gồm có 4 huyện: Lê Gia, Uy Viễn (Gia Viễn), Yên Ninh (Yên Khánh); Mô Độ (Yên Mô).
Năm Quang Thái thứ 10 (1397), Hồ Quý Ly cho đổi các lộ, phủ ra làm trấn. Lộ Trường Yên làm trấn Thiên Quan. Trấn Thiên Quan có từ đây.
Như vậy, dưới thời Trần và Hồ, đất Ninh Bình gồm lộ Trường Yên và trấn Thiên Quan. Trấn Thiên Quan bao gồm các huyện: Xích Thổ; Xa Lai và Khôi.
4. Thời thuộc Minh (1407-1427)
Sau khi diệt nhà Hồ, chiếm được nước ta (1407), nhà Minh đổi đặt nước ta làm quận Giao Chỉ. Năm Minh Vĩnh Lạc thứ 5, (1407), tháng 6, đặt các châu lệ thuộc vào 15 phủ và 5 châu lớn. Đổi lộ Trường Yên thành châu Trường Yên, thuộc phủ Kiến Bình. Phủ Kiến Bình là phần đất thuộc các huyện Vụ Bản, Ý Yên, Nghĩa Hưng tỉnh Nam Định(3). Đổi trấn Thiên Quan thuộc châu Ninh Hoá (vùng Hòa Bình ngày nay).
5. Thời Lê - Mạc; Lê - Trịnh (1428-1788)
Ninh Bình ở buổi đầu nhà Lê là đất hai phủ Trường Yên và Thiên Quan, cai quản 6 huyện. Phủ Trường Yên, 3 huyện: Gia Viễn, Yên Ninh và Yên Mô. Phủ Thiên Quan gồm 3 huyện: Phụng Hoá, Ninh Hoá và Lạc Thổ.
Năm 1527, nhà Mạc thay nhà Lê, tách hai phủ Trường Yên và Thiên Quan của thừa tuyên Sơn Nam làm Thanh Hoa ngoại trấn. Tuy gọi là Thanh Hoa Ngoại Trấn nhưng lại không thuộc về trấn Thanh Hoa mà nhà Mạc cho lệ thuộc vào trấn Sơn Nam.
6. Thời nhà Nguyễn và thuộc Pháp (1802-1945)
Đời Gia Long (1802-1819) cả nước chia làm 23 trấn, 4 doanh. Từ Thanh Hoa ngoại (tỉnh Ninh Bình ngày nay) trở ra Bắc gọi là Bắc Thành.
Đầu đời Gia Long, Ninh Bình vẫn gọi là Thanh Hoa ngoại trấn, gồm 2 phủ, 6 huyện. Năm Gia Long thứ 5 (1806) đổi Thanh Hoa ngoại trấn làm đạo Thanh Bình. Năm Minh Mạng thứ 2 (1821) đổi phủ Trường Yên thành phủ Yên Khánh
Năm Minh Mạng thứ 3 (1822) đổi đạo Thanh Bình thành đạo Ninh Bình. Địa danh Ninh Bình chính thức có từ đây, nhưng vẫn còn là đạo, vì địa bàn hẻo lánh, hiểm trở, song triều đình nhà Nguyễn đã dẹp yên hầu hết các cuộc ******* ở vùng Thiên Quan do họ Quách, họ Đinh cầm đầu, do vậy mới đổi đặt là Ninh Bình (^ ^ Ninh là yên ổn, Bình là thanh bình), nhưng vẫn lệ thuộc vào trấn Thanh Hoa.
Đạo Ninh Bình gồm 2 phủ, 6 huyện như đạo Thanh Bình trước. Năm Minh Mạng thứ 10 (1829), tháng 11, đổi đạo Ninh Bình thành trấn Ninh Bình. Cũng trong năm 1829, huyện Kim Sơn được thành lập, cho thuộc phủ Yên Khánh. Năm Minh Mạng thứ 12 (1831), nâng trấn Ninh Bình lên thành tỉnh Ninh Bình. Tỉnh Ninh Bình chính thức được thành lập,gồm 2 phủ, 7 huyện như trấn Ninh Bình cũ. Năm Tự Đức thứ 15 (1862), đổi tên phủ Thiên Quan thành phủ Nho Quan cũng gồm 3 huyện như phủ Thiên Quan trước.
Năm 1888, tỉnh Hoà Bình được thành lập. Huyện Lạc Thổ thuộc phủ Nho Quan, tỉnh Ninh Bình được cắt cho tỉnh Hoà Bình. Đến đây, tỉnh Ninh Bình bị thu hẹp lại một phần đất của huyện Lạc Thổ ở phía tây bắc tỉnh. Nghị định của thống sứ Bắc kỳ đề ngày 19/12/1905, huyện Gia Khánh được thành lập (nay là huyện Hoa Lư), thuộc phủ Yên Khánh.
Nghị định của Thống sứ Bắc kỳ ngày 27/8/1921, huyện Yên Hoá bị xoá bỏ. Huyện Yên Hoá là phần đất phía tây bắc huyện Gia Viễn (bên bờ phía tây sông Bôi) gồm đất các xã Gia Sơn, Gia Lâm, Gia Tường, GiaThuỷ, Xích Thổ và một phần Lạc Vân, huyện Nho Quan ngày nay. Sau khi huyện Yên Hoá bị xoá bỏ, huyện Gia Viễn được chuyển về phủ Nho Quan.
7. Từ sau Cách mạng tháng 8-1945
Sau Cách mạng tháng 8-1945, tỉnh Ninh Bình trực thuộc Khu 3 (sau ngày 25/1/1948 trực thuộc Liên khu Ba), gồm 1 thị xã, 6 huyện, 2 thị trấn: Thị xã Ninh Bình (tỉnh lỵ), huyện Nho Quan, huyện Gia Viễn, huyện Gia Khánh, huyện Yên Khánh, huyện Yên Mô, huyện Kim Sơn. Thị trấn Nho Quan (huyện lỵ huyện Nho Quan). Thị trấn Phát Diệm (huyện lỵ huyện Kim Sơn).
Địa giới và tổ chức các đơn vị hành chính huyện, thị xã, thị trấn được giữ cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước (30/4/1975).
Ngày 27/12/1975, tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khoá V của nước VNDCCH (sau đổi là CHXHCNVN) ra Nghị quyết hợp nhất tỉnh Ninh Bình và tỉnh Nam Hà thành tỉnh mới lấy tên là Hà Nam Ninh.
Ngày 26/12/1991, kỳ họp thứ 10, Quốc hợi khoá VIII nước CHXHCNVN ra Nghị quyết chia tách tỉnh Hà Nam Ninh thành tỉnh Nam Hà và tái lập tỉnh Ninh Bình. Ngày 01 tháng 04 năm 1992, tỉnh Ninh Bình chính thức đi vào hoạt động theo tỉnh mới được tái lập.
Chưa đạt tiêu chí của một tỉnh độc lập
Theo Nghị quyết 1211/2016 và Nghị quyết 27/2022 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về tiêu chuẩn đơn vị hành chính, một tỉnh cần đáp ứng các điều kiện về dân số, diện tích và số lượng đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc. Cụ thể:
Quy mô dân số: Tỉnh miền núi, vùng cao phải có ít nhất 900.000 người; các tỉnh khác có từ 1,4 triệu người trở lên.
Diện tích tự nhiên: Tỉnh miền núi, vùng cao phải có diện tích từ 8.000 km² trở lên; các tỉnh khác phải từ 5.000 km² trở lên.
Số đơn vị hành chính cấp huyện: Phải có từ 9 đơn vị trở lên, trong đó có ít nhất 1 thành phố hoặc thị xã.
Trong Danh sách các tỉnh, thành nằm trong diện sáp nhập vì không đủ tiêu chuẩn đơn vị hành chính, thì có tên Ninh Bình do không đạt tiêu chí về diện tích, trong đó diện tích của Ninh Bình chỉ có 1390 km2, chưa đạt tiêu chí 5000 km2 trở lên.
1. Thời Bắc thuộc và chống Bắc thuộc
Đất Ninh Bình đời Tần (221 TCN - 207 TCN), thuộc Tượng Quận. Đời Hán (206 TCN - 220), thuộc quận Giao Chỉ, từ đời Ngô, Tấn (222-422) về sau thuộc châu Giao, cuối đời Lương (543) là Trường Châu. Quận Giao Chỉ gồm 10 huyện. Đất Ninh Bình nằm trong các huyện Câu Lậu và một phần huyện Vô Công hay Vô Thiết, huyện địa đầu quận Cửu Chân. Đất Nho Quan và Gia Viễn thời Tần - Hán (221 TCN - 220) thuộc huyện Vô Công, địa đầu của quận Giao Chỉ.
Ninh Bình từ đời Ngô, Tấn (222 - 442) về sau là đất Giao Châu, cuối nhà Lương (543) là Trường Châu. Dưới thời Tuỳ, Đường (603 - 936), đất Ninh Bình nằm trong quận Giao Chỉ thuộc An Nam. Năm thứ 2, niên hiệu Tổng Chương nhà Đường (669), đặt ra châu Phúc Lộc, bắt đầu từ đấy mới có đất Nhu Viễn, sau đổi là An Viễn (Gia Viễn ngày nay).
2. Thời Đinh - Tiền Lê - Lý (968 -1225)
a) Đất Ninh Bình thời Đinh - Tiền Lê (968 - 1009): Đinh Tiên Hoàng chia nước ra làm 10 đạo. Nhà Tiền Lê (980 -1009) cho đổi 10 đạo của nhà Đinh thành lộ, phủ, châu. Đất Ninh Bình thời kỳ này là kinh đô Hoa Lư.
b) Đất Ninh Bình Thời Lý (1010¬1226): Lý Công Uẩn lên ngôi vua, lập ra triều Lý, thay triều Tiền Lê (1010), chia cả nước ra làm 24 lộ, nhưng chỉ thấy sử cũ ghi danh sách có 12 lộ. Về phủ thì các sách Việt Sử lược và Toàn thư chép: Phủ Trường Yên do thành Hoa Lư đổi ra, còn gọi là châu Đại Hoàng.
3. Thời Trần và Hồ (1226 -1406)
Năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 11 (1242), Trần Thái Tông cho đổi 24 lộ của nhà Lý làm 12 lộ, nhưng cũng không thấy chép danh sách các lộ. Đất Ninh Bình thuộc lộ Trường Yên, do nhà Trần cho đổi phủ Trường Yên của nhà Lý thành lộ Trường Yên, gồm có 4 huyện: Lê Gia, Uy Viễn (Gia Viễn), Yên Ninh (Yên Khánh); Mô Độ (Yên Mô).
Năm Quang Thái thứ 10 (1397), Hồ Quý Ly cho đổi các lộ, phủ ra làm trấn. Lộ Trường Yên làm trấn Thiên Quan. Trấn Thiên Quan có từ đây.
Như vậy, dưới thời Trần và Hồ, đất Ninh Bình gồm lộ Trường Yên và trấn Thiên Quan. Trấn Thiên Quan bao gồm các huyện: Xích Thổ; Xa Lai và Khôi.
4. Thời thuộc Minh (1407-1427)
Sau khi diệt nhà Hồ, chiếm được nước ta (1407), nhà Minh đổi đặt nước ta làm quận Giao Chỉ. Năm Minh Vĩnh Lạc thứ 5, (1407), tháng 6, đặt các châu lệ thuộc vào 15 phủ và 5 châu lớn. Đổi lộ Trường Yên thành châu Trường Yên, thuộc phủ Kiến Bình. Phủ Kiến Bình là phần đất thuộc các huyện Vụ Bản, Ý Yên, Nghĩa Hưng tỉnh Nam Định(3). Đổi trấn Thiên Quan thuộc châu Ninh Hoá (vùng Hòa Bình ngày nay).
5. Thời Lê - Mạc; Lê - Trịnh (1428-1788)
Ninh Bình ở buổi đầu nhà Lê là đất hai phủ Trường Yên và Thiên Quan, cai quản 6 huyện. Phủ Trường Yên, 3 huyện: Gia Viễn, Yên Ninh và Yên Mô. Phủ Thiên Quan gồm 3 huyện: Phụng Hoá, Ninh Hoá và Lạc Thổ.
Năm 1527, nhà Mạc thay nhà Lê, tách hai phủ Trường Yên và Thiên Quan của thừa tuyên Sơn Nam làm Thanh Hoa ngoại trấn. Tuy gọi là Thanh Hoa Ngoại Trấn nhưng lại không thuộc về trấn Thanh Hoa mà nhà Mạc cho lệ thuộc vào trấn Sơn Nam.
6. Thời nhà Nguyễn và thuộc Pháp (1802-1945)
Đời Gia Long (1802-1819) cả nước chia làm 23 trấn, 4 doanh. Từ Thanh Hoa ngoại (tỉnh Ninh Bình ngày nay) trở ra Bắc gọi là Bắc Thành.
Đầu đời Gia Long, Ninh Bình vẫn gọi là Thanh Hoa ngoại trấn, gồm 2 phủ, 6 huyện. Năm Gia Long thứ 5 (1806) đổi Thanh Hoa ngoại trấn làm đạo Thanh Bình. Năm Minh Mạng thứ 2 (1821) đổi phủ Trường Yên thành phủ Yên Khánh
Năm Minh Mạng thứ 3 (1822) đổi đạo Thanh Bình thành đạo Ninh Bình. Địa danh Ninh Bình chính thức có từ đây, nhưng vẫn còn là đạo, vì địa bàn hẻo lánh, hiểm trở, song triều đình nhà Nguyễn đã dẹp yên hầu hết các cuộc ******* ở vùng Thiên Quan do họ Quách, họ Đinh cầm đầu, do vậy mới đổi đặt là Ninh Bình (^ ^ Ninh là yên ổn, Bình là thanh bình), nhưng vẫn lệ thuộc vào trấn Thanh Hoa.
Đạo Ninh Bình gồm 2 phủ, 6 huyện như đạo Thanh Bình trước. Năm Minh Mạng thứ 10 (1829), tháng 11, đổi đạo Ninh Bình thành trấn Ninh Bình. Cũng trong năm 1829, huyện Kim Sơn được thành lập, cho thuộc phủ Yên Khánh. Năm Minh Mạng thứ 12 (1831), nâng trấn Ninh Bình lên thành tỉnh Ninh Bình. Tỉnh Ninh Bình chính thức được thành lập,gồm 2 phủ, 7 huyện như trấn Ninh Bình cũ. Năm Tự Đức thứ 15 (1862), đổi tên phủ Thiên Quan thành phủ Nho Quan cũng gồm 3 huyện như phủ Thiên Quan trước.
Năm 1888, tỉnh Hoà Bình được thành lập. Huyện Lạc Thổ thuộc phủ Nho Quan, tỉnh Ninh Bình được cắt cho tỉnh Hoà Bình. Đến đây, tỉnh Ninh Bình bị thu hẹp lại một phần đất của huyện Lạc Thổ ở phía tây bắc tỉnh. Nghị định của thống sứ Bắc kỳ đề ngày 19/12/1905, huyện Gia Khánh được thành lập (nay là huyện Hoa Lư), thuộc phủ Yên Khánh.
Nghị định của Thống sứ Bắc kỳ ngày 27/8/1921, huyện Yên Hoá bị xoá bỏ. Huyện Yên Hoá là phần đất phía tây bắc huyện Gia Viễn (bên bờ phía tây sông Bôi) gồm đất các xã Gia Sơn, Gia Lâm, Gia Tường, GiaThuỷ, Xích Thổ và một phần Lạc Vân, huyện Nho Quan ngày nay. Sau khi huyện Yên Hoá bị xoá bỏ, huyện Gia Viễn được chuyển về phủ Nho Quan.
7. Từ sau Cách mạng tháng 8-1945
Sau Cách mạng tháng 8-1945, tỉnh Ninh Bình trực thuộc Khu 3 (sau ngày 25/1/1948 trực thuộc Liên khu Ba), gồm 1 thị xã, 6 huyện, 2 thị trấn: Thị xã Ninh Bình (tỉnh lỵ), huyện Nho Quan, huyện Gia Viễn, huyện Gia Khánh, huyện Yên Khánh, huyện Yên Mô, huyện Kim Sơn. Thị trấn Nho Quan (huyện lỵ huyện Nho Quan). Thị trấn Phát Diệm (huyện lỵ huyện Kim Sơn).
Địa giới và tổ chức các đơn vị hành chính huyện, thị xã, thị trấn được giữ cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước (30/4/1975).
Ngày 27/12/1975, tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khoá V của nước VNDCCH (sau đổi là CHXHCNVN) ra Nghị quyết hợp nhất tỉnh Ninh Bình và tỉnh Nam Hà thành tỉnh mới lấy tên là Hà Nam Ninh.

Cố đô Hoa Lư
Ngày 26/12/1991, kỳ họp thứ 10, Quốc hợi khoá VIII nước CHXHCNVN ra Nghị quyết chia tách tỉnh Hà Nam Ninh thành tỉnh Nam Hà và tái lập tỉnh Ninh Bình. Ngày 01 tháng 04 năm 1992, tỉnh Ninh Bình chính thức đi vào hoạt động theo tỉnh mới được tái lập.
Chưa đạt tiêu chí của một tỉnh độc lập
Theo Nghị quyết 1211/2016 và Nghị quyết 27/2022 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về tiêu chuẩn đơn vị hành chính, một tỉnh cần đáp ứng các điều kiện về dân số, diện tích và số lượng đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc. Cụ thể:
Quy mô dân số: Tỉnh miền núi, vùng cao phải có ít nhất 900.000 người; các tỉnh khác có từ 1,4 triệu người trở lên.
Diện tích tự nhiên: Tỉnh miền núi, vùng cao phải có diện tích từ 8.000 km² trở lên; các tỉnh khác phải từ 5.000 km² trở lên.
Số đơn vị hành chính cấp huyện: Phải có từ 9 đơn vị trở lên, trong đó có ít nhất 1 thành phố hoặc thị xã.
Trong Danh sách các tỉnh, thành nằm trong diện sáp nhập vì không đủ tiêu chuẩn đơn vị hành chính, thì có tên Ninh Bình do không đạt tiêu chí về diện tích, trong đó diện tích của Ninh Bình chỉ có 1390 km2, chưa đạt tiêu chí 5000 km2 trở lên.
Nguồn: ninhbinh.gov.vn