MiLa Tara
Thành viên nổi tiếng
Sau hơn 30 năm, năng lực điều trị đột quỵ của Việt Nam đã thay đổi ngoạn mục, song hàng nghìn người vẫn gục ngã mỗi năm vì chủ quan và những “lỗ hổng” hệ thống chưa được lấp đầy.
PGS.TS.BS Nguyễn Huy Thắng, Trưởng khoa Bệnh lý Mạch máu não, Bệnh viện Nhân dân 115, Phó chủ tịch Hội Đột quỵ Việt Nam, mô tả bức tranh điều trị đột quỵ 30 năm trước bằng hai chữ bất lực. Khi ấy, y học gần như không thể làm gì hơn ngoài “cắm một chai dịch truyền”, phó mặc cho số phận mà nhiều người vẫn ví von là “trời kêu ai nấy dạ”.
Ba thập kỷ sau, bức tranh gần như đảo ngược. Việt Nam đã sở hữu nhiều kỹ thuật tiên tiến mà thế hệ trước "chỉ dám mơ". Nhờ can thiệp hiện đại, bác sĩ có thể cứu sống cả những ca hôn mê sâu, cận kề cái chết.
Tuy nhiên, nghịch lý trớ trêu vẫn tồn tại. Dù y học tiến bộ, mỗi năm vẫn có hơn 200.000 người rơi vào vòng xoáy đột quỵ, căn bệnh cướp đi khả năng vận động, ngôn ngữ và đôi khi là cả mạng sống.
Chia sẻ tại Medi Talk - “Đột quỵ: Nhận biết kịp, cứu sống kịp” doTri Thức - Znews thực hiện, hệ thống Nhà thuốc và Tiêm chủng Long Châu đồng hành hỗ trợ chuyên môn, PGS.TS.BS Nguyễn Huy Thắng, chỉ ra phần lớn bi kịch này hoàn toàn có thể phòng tránh nếu việc kiểm soát bệnh nền, tuân thủ điều trị và hệ thống cấp cứu được thực hiện hiệu quả hơn.
Sự chủ quan “chết người”
Nghịch lý đầu tiên bắt đầu ngay từ tuyến phòng thủ quan trọng nhất là phòng ngừa. Y học có nhiều loại thuốc hiệu quả, nhưng bi kịch xảy ra khi người bệnh tự “buông khiên”.
Theo PGS Nguyễn Huy Thắng, gần 90% ca đột quỵ có liên quan bệnh lý nền không được kiểm soát. Riêng tại Bệnh viện Nhân dân 115, mỗi năm đơn vị tiếp nhận khoảng 20.000 ca đột quỵ. Trong đó, 86% liên quan đến tăng huyết áp - “thủ phạm nguy hiểm nhất”, tiếp đến là rối loạn mỡ máu với 60% và đái tháo đường chiếm 30%.
Điều đáng nói, nhiều người chỉ phát hiện bệnh khi đã đột quỵ, đơn giản vì “chưa từng đo huyết áp hay xét nghiệm tiểu đường”. Ngay cả khi được chẩn đoán, không ít người vẫn tự ý ngưng thuốc. Tại Bệnh viện Nhân dân 115, khoảng 30% bệnh nhân tái phát nặng hơn vì không tuân thủ điều trị.
“Đó là một sai lầm rất lớn”, PGS Huy Thắng nhấn mạnh.
PGS.TS.BS Nguyễn Huy Thắng, Trưởng khoa Bệnh lý Mạch máu não, Bệnh viện Nhân dân 115, Phó chủ tịch Hội Đột quỵ Việt Nam, mô tả bức tranh điều trị đột quỵ 30 năm trước bằng hai chữ bất lực. Khi ấy, y học gần như không thể làm gì hơn ngoài “cắm một chai dịch truyền”, phó mặc cho số phận mà nhiều người vẫn ví von là “trời kêu ai nấy dạ”.
Ba thập kỷ sau, bức tranh gần như đảo ngược. Việt Nam đã sở hữu nhiều kỹ thuật tiên tiến mà thế hệ trước "chỉ dám mơ". Nhờ can thiệp hiện đại, bác sĩ có thể cứu sống cả những ca hôn mê sâu, cận kề cái chết.
Tuy nhiên, nghịch lý trớ trêu vẫn tồn tại. Dù y học tiến bộ, mỗi năm vẫn có hơn 200.000 người rơi vào vòng xoáy đột quỵ, căn bệnh cướp đi khả năng vận động, ngôn ngữ và đôi khi là cả mạng sống.
Chia sẻ tại Medi Talk - “Đột quỵ: Nhận biết kịp, cứu sống kịp” doTri Thức - Znews thực hiện, hệ thống Nhà thuốc và Tiêm chủng Long Châu đồng hành hỗ trợ chuyên môn, PGS.TS.BS Nguyễn Huy Thắng, chỉ ra phần lớn bi kịch này hoàn toàn có thể phòng tránh nếu việc kiểm soát bệnh nền, tuân thủ điều trị và hệ thống cấp cứu được thực hiện hiệu quả hơn.
Sự chủ quan “chết người”
Nghịch lý đầu tiên bắt đầu ngay từ tuyến phòng thủ quan trọng nhất là phòng ngừa. Y học có nhiều loại thuốc hiệu quả, nhưng bi kịch xảy ra khi người bệnh tự “buông khiên”.
Theo PGS Nguyễn Huy Thắng, gần 90% ca đột quỵ có liên quan bệnh lý nền không được kiểm soát. Riêng tại Bệnh viện Nhân dân 115, mỗi năm đơn vị tiếp nhận khoảng 20.000 ca đột quỵ. Trong đó, 86% liên quan đến tăng huyết áp - “thủ phạm nguy hiểm nhất”, tiếp đến là rối loạn mỡ máu với 60% và đái tháo đường chiếm 30%.
Điều đáng nói, nhiều người chỉ phát hiện bệnh khi đã đột quỵ, đơn giản vì “chưa từng đo huyết áp hay xét nghiệm tiểu đường”. Ngay cả khi được chẩn đoán, không ít người vẫn tự ý ngưng thuốc. Tại Bệnh viện Nhân dân 115, khoảng 30% bệnh nhân tái phát nặng hơn vì không tuân thủ điều trị.
“Đó là một sai lầm rất lớn”, PGS Huy Thắng nhấn mạnh.
PGS.TS.BS Nguyễn Huy Thắng, Trưởng khoa Bệnh lý Mạch máu não, Bệnh viện Nhân dân 115, Phó chủ tịch Hội Đột quỵ Việt Nam, chia sẻ tại tọa đàm “Đột quỵ: Nhận biết kịp, cứu sống kịp”. Ảnh: Phương Lâm.
Các bệnh nền không thể chữa khỏi, chỉ có thể kiểm soát suốt đời. Khi gián đoạn thuốc, huyết áp, đường huyết và mỡ máu lại tăng, âm thầm phá hủy mạch máu não.
Một lý do khác khiến người bệnh bỏ điều trị là sợ tác dụng phụ. PGS Thắng cho biết đa số tác dụng phụ đều nhẹ và có thể kiểm soát được nếu được theo dõi định kỳ. Ngược lại, việc ngưng thuốc vì lo ngại rủi ro lại khiến người bệnh mất luôn cơ hội phòng ngừa đột quỵ. Đặc biệt, nhiều người tự ý dừng thuốc hạ mỡ máu (statin) khi thấy chỉ số mỡ máu bình thường.
“Mỡ máu trong xét nghiệm chỉ là phần hòa tan, không phản ánh lượng mỡ đã bám trong thành mạch”, PGS Thắng giải thích.
Ông ví mạch máu như ống nước lâu ngày có cặn bám, statin không chỉ giảm mỡ hòa tan mà còn giúp làm sạch thành mạch, thoái chuyển mảng xơ vữa. Khi người bệnh ngưng thuốc, toàn bộ nỗ lực phòng ngừa trở nên vô nghĩa.
Mặt khác, tuổi thọ dân số trên toàn thế giới đang tăng lên nhờ hệ thống y tế và điều kiện kinh tế - xã hội tốt hơn so với trước đây. Khi con người sống lâu hơn, cơ thể lão hóa dần và các bệnh mạn tính xuất hiện nhiều hơn. Những bệnh thường gặp như tăng huyết áp, tiểu đường, xơ vữa mạch máu… đều gia tăng theo tuổi và chính là các nguyên nhân phổ biến dẫn đến đột quỵ.
Bên cạnh đó, đột quỵ hiện nay còn có xu hướng trẻ hóa. Nếu 20-30 năm trước, trường hợp đột quỵ ở trẻ em hay thanh thiếu niên rất hiếm, thì nay hầu như bác sĩ nào cũng đã gặp một vài ca.
Ngoài yếu tố bẩm sinh và bệnh lý mạn tính, lối sống đang góp phần lớn vào tình trạng này. Người trẻ tiếp xúc nhiều hơn với thuốc lá, rượu bia và đặc biệt là các chất gây nghiện, khiến nguy cơ đột quỵ ở nhóm tuổi này tăng lên đáng kể so với trước đây.
Hệ thống cấp cứu còn nhiều “nút thắt”
Tại Hội nghị Đột quỵ TP.HCM diễn ra vào tháng 8, PGS.TS.BS Nguyễn Huy Thắng cho biết 88% trong số 7.000 bệnh nhân nhập viện muộn, trung bình sau 16 tiếng kể từ khi phát bệnh, vượt xa giai đoạn “cửa sổ vàng” cấp cứu đột quỵ trong 3 giờ đầu kể từ khi có triệu chứng.
Nguyên nhân chính là thiếu nhận biết sớm. Nhiều người chủ quan khi thấy chỉ tê nhẹ, chóng mặt thoáng qua, đến khi liệt nửa người mới đi viện. Trong khi đó, dấu hiệu đột quỵ rất rõ như yếu hoặc liệt nửa người, méo miệng, nói ngọng, cầm nắm khó.
“Trong điều trị đột quỵ, thời gian chính là não. Mỗi phút trôi qua, khoảng hai triệu tế bào não chết đi và không thể tái tạo”, PGS Huy Thắng nhấn mạnh. Đến viện sớm đồng nghĩa với cứu được não, giảm tàn phế.
Một lý do khác khiến người bệnh bỏ điều trị là sợ tác dụng phụ. PGS Thắng cho biết đa số tác dụng phụ đều nhẹ và có thể kiểm soát được nếu được theo dõi định kỳ. Ngược lại, việc ngưng thuốc vì lo ngại rủi ro lại khiến người bệnh mất luôn cơ hội phòng ngừa đột quỵ. Đặc biệt, nhiều người tự ý dừng thuốc hạ mỡ máu (statin) khi thấy chỉ số mỡ máu bình thường.
“Mỡ máu trong xét nghiệm chỉ là phần hòa tan, không phản ánh lượng mỡ đã bám trong thành mạch”, PGS Thắng giải thích.
Ông ví mạch máu như ống nước lâu ngày có cặn bám, statin không chỉ giảm mỡ hòa tan mà còn giúp làm sạch thành mạch, thoái chuyển mảng xơ vữa. Khi người bệnh ngưng thuốc, toàn bộ nỗ lực phòng ngừa trở nên vô nghĩa.
Mặt khác, tuổi thọ dân số trên toàn thế giới đang tăng lên nhờ hệ thống y tế và điều kiện kinh tế - xã hội tốt hơn so với trước đây. Khi con người sống lâu hơn, cơ thể lão hóa dần và các bệnh mạn tính xuất hiện nhiều hơn. Những bệnh thường gặp như tăng huyết áp, tiểu đường, xơ vữa mạch máu… đều gia tăng theo tuổi và chính là các nguyên nhân phổ biến dẫn đến đột quỵ.
Bên cạnh đó, đột quỵ hiện nay còn có xu hướng trẻ hóa. Nếu 20-30 năm trước, trường hợp đột quỵ ở trẻ em hay thanh thiếu niên rất hiếm, thì nay hầu như bác sĩ nào cũng đã gặp một vài ca.
Ngoài yếu tố bẩm sinh và bệnh lý mạn tính, lối sống đang góp phần lớn vào tình trạng này. Người trẻ tiếp xúc nhiều hơn với thuốc lá, rượu bia và đặc biệt là các chất gây nghiện, khiến nguy cơ đột quỵ ở nhóm tuổi này tăng lên đáng kể so với trước đây.
Hệ thống cấp cứu còn nhiều “nút thắt”
Tại Hội nghị Đột quỵ TP.HCM diễn ra vào tháng 8, PGS.TS.BS Nguyễn Huy Thắng cho biết 88% trong số 7.000 bệnh nhân nhập viện muộn, trung bình sau 16 tiếng kể từ khi phát bệnh, vượt xa giai đoạn “cửa sổ vàng” cấp cứu đột quỵ trong 3 giờ đầu kể từ khi có triệu chứng.
Nguyên nhân chính là thiếu nhận biết sớm. Nhiều người chủ quan khi thấy chỉ tê nhẹ, chóng mặt thoáng qua, đến khi liệt nửa người mới đi viện. Trong khi đó, dấu hiệu đột quỵ rất rõ như yếu hoặc liệt nửa người, méo miệng, nói ngọng, cầm nắm khó.
“Trong điều trị đột quỵ, thời gian chính là não. Mỗi phút trôi qua, khoảng hai triệu tế bào não chết đi và không thể tái tạo”, PGS Huy Thắng nhấn mạnh. Đến viện sớm đồng nghĩa với cứu được não, giảm tàn phế.
Trong điều trị đột quỵ, “thời gian là não”. Ảnh: Đinh Hà.
Tuy nhiên, hệ thống cấp cứu hiện nay vẫn chưa đáp ứng. Hơn 90% bệnh nhân tại Bệnh viện 115 phải đến viện bằng taxi hoặc xe máy vì mạng lưới cấp cứu còn yếu và thiếu kết nối.
Ở Mỹ, châu Âu hay gần đây là Thái Lan, mô hình “đơn vị đột quỵ di động” (Mobile Stroke Unit) đã được triển khai. Xe cấp cứu này được trang bị máy CT, thuốc tiêu sợi huyết và hệ thống hội chẩn từ xa. Khi có ca nghi đột quỵ, bác sĩ có thể chụp CT, chẩn đoán và tiêm thuốc ngay trên xe, sau đó chuyển đến bệnh viện phù hợp.
Nhờ đó, tỷ lệ bệnh nhân được điều trị trong “giờ kim cương”, 60 phút đầu phát bệnh ở Mỹ đã tăng từ 3% lên 33%. “Mô hình này giúp đưa bệnh viện đến gần bệnh nhân hơn”, PGS Huy Thắng nói. Tuy nhiên, chi phí đầu tư cao khiến Việt Nam chưa thể triển khai.
Thiếu “bản đồ đột quỵ quốc gia”
Chủ tịch Hội Đột quỵ TP.HCM cho rằng lỗ hổng còn nằm ở hành trình cấp cứu. PGS.TS.BS Nguyễn Huy Thắng kể trường hợp bệnh nhi 14 tuổi bị đột quỵ, phải mất 16 giờ mới đến được trung tâm chuyên sâu. Không phải do chậm trễ của gia đình mà vì hệ thống y tế chưa có hướng dẫn chuyển tuyến rõ ràng.
Việt Nam hiện có hơn 1.500 bệnh viện, nhưng chỉ khoảng 130 cơ sở có đơn vị đột quỵ được trang bị đầy đủ, tức chỉ 10% bệnh viện có thể điều trị đúng ngay từ đầu. Hệ quả là nhiều bệnh nhân bị “đi sai đường” trong những giờ phút sinh tử.
Ở Mỹ, châu Âu hay gần đây là Thái Lan, mô hình “đơn vị đột quỵ di động” (Mobile Stroke Unit) đã được triển khai. Xe cấp cứu này được trang bị máy CT, thuốc tiêu sợi huyết và hệ thống hội chẩn từ xa. Khi có ca nghi đột quỵ, bác sĩ có thể chụp CT, chẩn đoán và tiêm thuốc ngay trên xe, sau đó chuyển đến bệnh viện phù hợp.
Nhờ đó, tỷ lệ bệnh nhân được điều trị trong “giờ kim cương”, 60 phút đầu phát bệnh ở Mỹ đã tăng từ 3% lên 33%. “Mô hình này giúp đưa bệnh viện đến gần bệnh nhân hơn”, PGS Huy Thắng nói. Tuy nhiên, chi phí đầu tư cao khiến Việt Nam chưa thể triển khai.
Thiếu “bản đồ đột quỵ quốc gia”
Chủ tịch Hội Đột quỵ TP.HCM cho rằng lỗ hổng còn nằm ở hành trình cấp cứu. PGS.TS.BS Nguyễn Huy Thắng kể trường hợp bệnh nhi 14 tuổi bị đột quỵ, phải mất 16 giờ mới đến được trung tâm chuyên sâu. Không phải do chậm trễ của gia đình mà vì hệ thống y tế chưa có hướng dẫn chuyển tuyến rõ ràng.
Việt Nam hiện có hơn 1.500 bệnh viện, nhưng chỉ khoảng 130 cơ sở có đơn vị đột quỵ được trang bị đầy đủ, tức chỉ 10% bệnh viện có thể điều trị đúng ngay từ đầu. Hệ quả là nhiều bệnh nhân bị “đi sai đường” trong những giờ phút sinh tử.
Việt Nam hiện có hơn 130 trung tâm đột quỵ. Ảnh: Đinh Hà.
Theo PGS Thắng, ngành y cần sớm xây dựng bản đồ đột quỵ quốc gia, một hệ thống định hướng giúp người dân và nhân viên y tế biết nơi gần nhất có thể xử lý ca đột quỵ kịp thời. Nếu không chỉ đường đúng, bệnh nhân dù phát hiện sớm cũng vẫn mất cơ hội sống.
Với bệnh nhân đột quỵ, tàn phế, sống phụ thuộc mới là bi kịch lớn nhất. Ở nhiều quốc gia, sau giai đoạn cấp cứu, bệnh nhân được chuyển đến trung tâm phục hồi chức năng trong 3-6 tháng đầu, giai đoạn phục hồi tốt nhất.
Nhưng tại Việt Nam, rất ít bệnh viện có đơn vị phục hồi sau đột quỵ, khiến đa số bệnh nhân phải về nhà khi chưa hồi phục, dẫn đến di chứng nặng nề như không thể đi lại, nói chuyện hay tự chăm sóc bản thân.
Từ kinh nghiệm điều trị hàng nghìn ca mỗi năm, PGS.TS Nguyễn Huy Thắng cho rằng cứu sống chỉ là bước đầu. Điều khiến bác sĩ điều trị đột quỵ tự hào là giúp bệnh nhân có thể trở lại cuộc sống gần như bình thường sau đó.
Để làm được điều đó, cần đồng bộ ba yếu tố: người dân chủ động phòng bệnh, tuân thủ điều trị lâu dài và hệ thống y tế có khả năng tiếp cận nhanh, đúng nơi.
Đột quỵ có thể xảy ra với bất kỳ ai, ở bất kỳ lứa tuổi nào. Nhưng nếu những lỗ hổng trong phòng ngừa và điều trị được lấp đầy, nhiều người sẽ giữ lại được trọn vẹn cuộc đời của mình.
Nguồn: Znews.vn
Với bệnh nhân đột quỵ, tàn phế, sống phụ thuộc mới là bi kịch lớn nhất. Ở nhiều quốc gia, sau giai đoạn cấp cứu, bệnh nhân được chuyển đến trung tâm phục hồi chức năng trong 3-6 tháng đầu, giai đoạn phục hồi tốt nhất.
Nhưng tại Việt Nam, rất ít bệnh viện có đơn vị phục hồi sau đột quỵ, khiến đa số bệnh nhân phải về nhà khi chưa hồi phục, dẫn đến di chứng nặng nề như không thể đi lại, nói chuyện hay tự chăm sóc bản thân.
Từ kinh nghiệm điều trị hàng nghìn ca mỗi năm, PGS.TS Nguyễn Huy Thắng cho rằng cứu sống chỉ là bước đầu. Điều khiến bác sĩ điều trị đột quỵ tự hào là giúp bệnh nhân có thể trở lại cuộc sống gần như bình thường sau đó.
Để làm được điều đó, cần đồng bộ ba yếu tố: người dân chủ động phòng bệnh, tuân thủ điều trị lâu dài và hệ thống y tế có khả năng tiếp cận nhanh, đúng nơi.
Đột quỵ có thể xảy ra với bất kỳ ai, ở bất kỳ lứa tuổi nào. Nhưng nếu những lỗ hổng trong phòng ngừa và điều trị được lấp đầy, nhiều người sẽ giữ lại được trọn vẹn cuộc đời của mình.
Nguồn: Znews.vn




