Cao Tùng
Thành viên nổi tiếng
Vâng, tỉnh tôi muốn đề cập đến ở đây là tỉnh Thanh Hóa
Thanh Hóa, mảnh đất giàu truyền thống và lịch sử, đã chứng kiến những bước chân đầu tiên của con người từ thời kỳ sơ khai, trải qua bao thăng trầm để trở thành một phần không thể tách rời trong câu chuyện dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Hãy cùng ngược dòng thời gian, khám phá hành trình đầy hấp dẫn của vùng đất này.
Hình ảnh trên cánh đồng Pù Luông, địa điểm du lịch hấp dẫn của Thanh Hóa
Từ thời hồng hoang: Dấu chân người nguyên thủy
Vào buổi bình minh của thời đại đồng thau, khi các vua Hùng đặt nền móng cho nước Văn Lang, Thanh Hóa đã là nơi sinh sống của những cộng đồng nguyên thủy trải dài từ miền núi, đồng bằng cho đến ven biển. Ở vùng núi Thường Xuân, những hang động như Thẩm Hai, Thẩm Tiên lưu giữ dấu tích của con người thời kỳ này. Trong lớp đất dày hàng chục phân, các nhà khảo cổ đã tìm thấy những chiếc rìu đá, đục đá được mài nhẵn, cùng với vài mảnh gốm thô sơ nhưng đầy sáng tạo: miệng loe, vai xuôi, có khi còn có chân đế, trang trí bằng những đường khắc song song hoặc chéo nhau. Vỏ ốc suối nằm lẫn trong đất cho thấy họ đã biết tận dụng nguồn sống từ thiên nhiên. Những cư dân này không chỉ dừng lại ở săn bắt, hái lượm mà đã bắt đầu đặt nền móng cho nghề nông, sống quây quần quanh những thung lũng bằng phẳng.
Trong khi đó, ở vùng ven biển, văn hóa Hoa Lộc (huyện Hậu Lộc) rực rỡ hơn cả với những bước tiến vượt bậc. Được khai quật vào những năm 1974-1975, di chỉ Hoa Lộc hé lộ một cộng đồng sống gần bờ biển, giỏi đánh cá – bằng chứng là những chì lưới, xương cá biển lẫn cá nước ngọt – đồng thời biết chăn nuôi và săn bắn. Xương trâu, bò, chó, lợn, hay thậm chí hươu, nai, tê giác được tìm thấy cho thấy sự phong phú trong đời sống của họ. Đặc biệt, những chiếc cuốc đá có vai, rìu mài nhẵn, và cả dấu vết vỏ trấu lúa nước ở di tích Bái Cù khẳng định họ đã phát triển một nền nông nghiệp dùng cuốc khá vững chắc.
Người Hoa Lộc còn là những nghệ nhân gốm tài hoa. Đồ gốm của họ mang dáng vẻ độc đáo: bình vai gãy, miệng gấp, có khi hình nhiều cạnh hiếm thấy ở nơi khác. Hoa văn trên gốm phong phú đến kinh ngạc, với 18 kiểu khác nhau, nổi bật nhất là hình bọ gậy được tạo bằng cách ấn vỏ sò biển lên gốm còn ướt. Họ còn để lại những con dấu đất nung hình chữ nhật hoặc tròn, khắc chữ “S” hoặc hoa văn sâu đậm – có lẽ để in vải chứ không chỉ trang trí gốm. Thậm chí, dấu vết đồng – dù đã rỉ nát – cũng được tìm thấy, cho thấy họ đã chạm đến ngưỡng cửa của thời kỳ kim loại. Văn hóa Hoa Lộc không khép kín mà giao lưu rộng rãi với các vùng khác, từ Sơn La, Ba Vì, Ninh Bình cho đến Nghệ An, để lại dấu ấn hoa văn đặc trưng khắp nơi.
Ở đồng bằng sông Mã, di chỉ Cồn Chân Tiên cùng các địa điểm như núi Chàn, khe Tiên Nông đánh dấu sự khởi đầu của thời đại đồng thau sơ kỳ. Những công cụ đá bazan được chế tác tinh xảo, từ rìu lưỡi cân đến bôn hình chữ V lệch, cho thấy trình độ kỹ thuật cao. Họ dùng bàn mài hạt thô để phá, hạt mịn để trau chuốt, thậm chí chế tác cả trang sức đá ngọc nhỏ xinh, sắc bén. Lúa nước đã trở thành trụ cột kinh tế, đưa Cồn Chân Tiên thành tiền đề cho sự hình thành bộ Cửu Chân trong nước Văn Lang.
Thời Đông Khối: Đỉnh cao thời đại đồng thau
Đến giai đoạn trung kỳ thời đại đồng thau, di chỉ Đông Khối (xã Đông Cương, Đông Sơn) nổi lên như một trung tâm chế tác đá sôi động cách đây khoảng 3.000 năm. Khai quật năm 1960, nơi đây để lại hàng loạt phác vật, mảnh tước chất đầy trên cánh đồng sát chân núi Voi. Rìu và bôn tứ giác chiếm ưu thế, đa dạng từ hình thang vuông đến lưỡi mỏng hay dày như búa rìu. Nông nghiệp phát triển mạnh với lúa nếp – bằng chứng là những mẫu trấu hạt tròn ở Đồng Ngầm, Bái Man. Thủ công nghiệp như làm gốm, chế tác đá cũng đạt đến đỉnh cao, phản ánh một xã hội thị tộc phụ quyền ngày càng vững mạnh.
Thời Bắc thuộc
Năm 179 TCN, nước Âu Lạc của vua Thục rơi vào tay Triệu Đà, kéo theo Cửu Chân – trong đó có Thanh Hóa – bị sáp nhập vào Nam Việt. Đến năm 111 TCN, nhà Hán chinh phục Nam Việt, chia lãnh thổ thành 9 quận, với Thanh Hóa nằm trọn trong quận Cửu Chân. Hơn 10 thế kỷ Bắc thuộc, từ Hán, Tam Quốc, Lưỡng Tấn đến Tùy, Đường, người dân nơi đây chịu cảnh lầm than dưới ách đô hộ. Địa danh thay đổi theo dòng lịch sử, nhưng tinh thần bất khuất vẫn âm ỉ chờ ngày bùng phát.
Người nguyên thủy: Từ đồ đá cũ đến đồ đá mới
Xa hơn nữa, vào thời đồ đá cũ, Thanh Hóa đã là nhà của những người vượn sớm nhất. Năm 1960, tại núi Đọ (Thanh Hóa), các nhà khảo cổ phát hiện dấu tích văn hóa núi Đọ – một nền văn hóa sơ kỳ với rìu tay, mảnh tước rải rác trên sườn núi. Cùng với núi Nuông, Quan Yên, họ sống thành bầy, săn bắn, hái lượm, và phân chia công bằng. Đời sống tinh thần cũng bắt đầu nhen nhóm qua những trò giải trí đơn sơ.
Đến hậu kỳ đồ đá cũ, văn hóa Sơn Vi xuất hiện ở vùng núi phía Tây như Cẩm Thủy, Bá Thước. Mái đá Điều (Hạ Trung) hé lộ hàng ngàn hiện vật trong vài mét vuông: công cụ đá, xương thú, thậm chí 10 ngôi mộ cổ với hai bộ xương hóa thạch hiếm có. Hang Con Moong (Thạch Thành) là minh chứng sống động cho sự chuyển giao từ đồ đá cũ sang đồ đá mới, với tầng văn hóa dày 3,5m chứa công cụ múi cam, chày nghiền, và dấu vết bếp lửa. Họ chôn người chết nằm co, bôi thổ hoàng – một phong tục độc đáo.
Sang thời đồ đá mới, văn hóa Hòa Bình tiếp nối Sơn Vi, tập trung ở các hang động gần sông suối. Hang Con Moong, mái đá Điều cho thấy công cụ đá tinh xảo hơn, như rìu ngắn, công cụ Xumatơra hình bầu dục, cùng đồ dùng bằng xương được mài nhọn. Họ sống định cư lâu dài, khai thác nhuyễn thể, săn thú, và bắt đầu trồng trọt cây củ, quả. Xã hội chuyển sang chế độ mẫu hệ, với phụ nữ đóng vai trò trung tâm trong kinh tế hái lượm.
Văn hóa Bắc Sơn đánh dấu bước ngoặt với kỹ thuật mài đá và sự ra đời của đồ gốm thô sơ. Dù vẫn phụ thuộc vào săn bắt, hái lượm, họ đã đặt nền móng cho nông nghiệp. Cuối cùng, văn hóa Đa Bút xuất hiện khi đồng bằng sông Mã hình thành, kéo cư dân từ núi xuống khai phá. Nông nghiệp lúa nước phát triển, dân số tăng, và các nghề thủ công như đánh cá, làm gốm nở rộ, làm phong phú thêm bức tranh văn hóa thời tiền sử.
Dựng nước và giữ nước: Những trang sử hào hùng
Thanh Hóa không chỉ là cái nôi văn hóa mà còn là đất khởi nghiệp của những cuộc kháng chiến. Năm 156, Chu Đạt (Triệu Sơn) ******* đánh bại huyện lệnh Cự Phong, quản lý Cửu Chân suốt 4 năm. Đến năm 248, bà Triệu Thị Trinh từ núi Nưa (Triệu Sơn) lãnh đạo nghĩa quân đánh tan quân Đông Ngô, lật đổ hơn 330 năm đô hộ. Thế kỷ 6, Lý Nam Đế lập nước Vạn Xuân, với anh em Lý Thiên Bảo tiếp tục kháng chiến ở Bá Thước. Đầu thế kỷ 7, Lê Ngọc chống nhà Tùy, tự quản Cửu Chân từ Đông Phố.
Thế kỷ 10, Dương Đình Nghệ tụ nghĩa ở Thanh Hóa, đánh đuổi Nam Hán năm 931, mở ra thời kỳ độc lập. Ngô Quyền, từ Cửu Chân, đại thắng Bạch Đằng năm 938, chấm dứt ngàn năm Bắc thuộc. Thời Tiền Lê, Lê Hoàn đánh tan quân Tống, Chiêm Thành, và xây dựng hệ thống giao thông sông ngòi. Nhà Lý đặt tên Thanh Hóa từ năm 1029, khẳng định vị thế hành chính. Nhà Trần ghi dấu với Lê Văn Hưu – ông tổ sử học – và các trận đánh chống Nguyên Mông. Nhà Hồ dựng Tây Đô ở Vĩnh Lộc, dù ngắn ngủi, vẫn để lại dấu ấn cải cách.
Cuộc kháng chiến 10 năm của Lê Lợi (1418-1428) khởi nguồn từ Lam Sơn, giải phóng đất nước khỏi nhà Minh. Thời Lê sơ, Lam Kinh trở thành biểu tượng, dù trải qua nhiều biến cố. Thời Lê-Mạc, Thanh Hóa là căn cứ chống Mạc của Nguyễn Kim, Trịnh Kiểm. Tây Sơn phá hủy nhiều di tích nhưng không dập tắt tinh thần xứ Thanh. Dưới nhà Nguyễn, Thanh Hóa được coi trọng đặc biệt, là đất tổ với hệ thống phòng thủ hùng mạnh. Cuối thế kỷ 19, phong trào Cần Vương ở Ba Đình chống Pháp để lại dấu son rực rỡ.
Thời hiện đại: Bước chuyển mới
Từ những tổ chức cách mạng đầu tiên năm 1926-1927, Đảng bộ Thanh Hóa ra đời năm 1930, dẫn dắt nhân dân giành chính quyền năm 1945. Ngày 23/8/1945, chính quyền cách mạng tỉnh ra mắt, mở ra kỷ nguyên mới. Thanh Hóa, từ cái nôi của các vương triều Tiền Lê, Hậu Lê, Nguyễn, đến nay vẫn tiếp tục góp phần xây dựng đất nước giàu đẹp.
Hiện nay, khi đất nước đang trong công cuộc cách mạng tinh gọn nâng cao hiệu quả bộ máy, tổ chức bộ máy chính quyền địa phương còn hai cấp, Thanh Hóa được xếp vào một trong số ít các tỉnh thành đạt cả tiêu chí về diện tích và dân số. Trước đây, Thanh Hóa cũng chưa từng nằm trong số các tỉnh thành được nhập/ tách.
Liệu lần này có thay đổi gì không? Kết quả sẽ có muộn nhất trước tháng 9/2025.
Thanh Hóa, mảnh đất giàu truyền thống và lịch sử, đã chứng kiến những bước chân đầu tiên của con người từ thời kỳ sơ khai, trải qua bao thăng trầm để trở thành một phần không thể tách rời trong câu chuyện dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Hãy cùng ngược dòng thời gian, khám phá hành trình đầy hấp dẫn của vùng đất này.

Hình ảnh trên cánh đồng Pù Luông, địa điểm du lịch hấp dẫn của Thanh Hóa
Từ thời hồng hoang: Dấu chân người nguyên thủy
Vào buổi bình minh của thời đại đồng thau, khi các vua Hùng đặt nền móng cho nước Văn Lang, Thanh Hóa đã là nơi sinh sống của những cộng đồng nguyên thủy trải dài từ miền núi, đồng bằng cho đến ven biển. Ở vùng núi Thường Xuân, những hang động như Thẩm Hai, Thẩm Tiên lưu giữ dấu tích của con người thời kỳ này. Trong lớp đất dày hàng chục phân, các nhà khảo cổ đã tìm thấy những chiếc rìu đá, đục đá được mài nhẵn, cùng với vài mảnh gốm thô sơ nhưng đầy sáng tạo: miệng loe, vai xuôi, có khi còn có chân đế, trang trí bằng những đường khắc song song hoặc chéo nhau. Vỏ ốc suối nằm lẫn trong đất cho thấy họ đã biết tận dụng nguồn sống từ thiên nhiên. Những cư dân này không chỉ dừng lại ở săn bắt, hái lượm mà đã bắt đầu đặt nền móng cho nghề nông, sống quây quần quanh những thung lũng bằng phẳng.
Trong khi đó, ở vùng ven biển, văn hóa Hoa Lộc (huyện Hậu Lộc) rực rỡ hơn cả với những bước tiến vượt bậc. Được khai quật vào những năm 1974-1975, di chỉ Hoa Lộc hé lộ một cộng đồng sống gần bờ biển, giỏi đánh cá – bằng chứng là những chì lưới, xương cá biển lẫn cá nước ngọt – đồng thời biết chăn nuôi và săn bắn. Xương trâu, bò, chó, lợn, hay thậm chí hươu, nai, tê giác được tìm thấy cho thấy sự phong phú trong đời sống của họ. Đặc biệt, những chiếc cuốc đá có vai, rìu mài nhẵn, và cả dấu vết vỏ trấu lúa nước ở di tích Bái Cù khẳng định họ đã phát triển một nền nông nghiệp dùng cuốc khá vững chắc.
Người Hoa Lộc còn là những nghệ nhân gốm tài hoa. Đồ gốm của họ mang dáng vẻ độc đáo: bình vai gãy, miệng gấp, có khi hình nhiều cạnh hiếm thấy ở nơi khác. Hoa văn trên gốm phong phú đến kinh ngạc, với 18 kiểu khác nhau, nổi bật nhất là hình bọ gậy được tạo bằng cách ấn vỏ sò biển lên gốm còn ướt. Họ còn để lại những con dấu đất nung hình chữ nhật hoặc tròn, khắc chữ “S” hoặc hoa văn sâu đậm – có lẽ để in vải chứ không chỉ trang trí gốm. Thậm chí, dấu vết đồng – dù đã rỉ nát – cũng được tìm thấy, cho thấy họ đã chạm đến ngưỡng cửa của thời kỳ kim loại. Văn hóa Hoa Lộc không khép kín mà giao lưu rộng rãi với các vùng khác, từ Sơn La, Ba Vì, Ninh Bình cho đến Nghệ An, để lại dấu ấn hoa văn đặc trưng khắp nơi.
Ở đồng bằng sông Mã, di chỉ Cồn Chân Tiên cùng các địa điểm như núi Chàn, khe Tiên Nông đánh dấu sự khởi đầu của thời đại đồng thau sơ kỳ. Những công cụ đá bazan được chế tác tinh xảo, từ rìu lưỡi cân đến bôn hình chữ V lệch, cho thấy trình độ kỹ thuật cao. Họ dùng bàn mài hạt thô để phá, hạt mịn để trau chuốt, thậm chí chế tác cả trang sức đá ngọc nhỏ xinh, sắc bén. Lúa nước đã trở thành trụ cột kinh tế, đưa Cồn Chân Tiên thành tiền đề cho sự hình thành bộ Cửu Chân trong nước Văn Lang.
Thời Đông Khối: Đỉnh cao thời đại đồng thau
Đến giai đoạn trung kỳ thời đại đồng thau, di chỉ Đông Khối (xã Đông Cương, Đông Sơn) nổi lên như một trung tâm chế tác đá sôi động cách đây khoảng 3.000 năm. Khai quật năm 1960, nơi đây để lại hàng loạt phác vật, mảnh tước chất đầy trên cánh đồng sát chân núi Voi. Rìu và bôn tứ giác chiếm ưu thế, đa dạng từ hình thang vuông đến lưỡi mỏng hay dày như búa rìu. Nông nghiệp phát triển mạnh với lúa nếp – bằng chứng là những mẫu trấu hạt tròn ở Đồng Ngầm, Bái Man. Thủ công nghiệp như làm gốm, chế tác đá cũng đạt đến đỉnh cao, phản ánh một xã hội thị tộc phụ quyền ngày càng vững mạnh.
Thời Bắc thuộc
Năm 179 TCN, nước Âu Lạc của vua Thục rơi vào tay Triệu Đà, kéo theo Cửu Chân – trong đó có Thanh Hóa – bị sáp nhập vào Nam Việt. Đến năm 111 TCN, nhà Hán chinh phục Nam Việt, chia lãnh thổ thành 9 quận, với Thanh Hóa nằm trọn trong quận Cửu Chân. Hơn 10 thế kỷ Bắc thuộc, từ Hán, Tam Quốc, Lưỡng Tấn đến Tùy, Đường, người dân nơi đây chịu cảnh lầm than dưới ách đô hộ. Địa danh thay đổi theo dòng lịch sử, nhưng tinh thần bất khuất vẫn âm ỉ chờ ngày bùng phát.
Người nguyên thủy: Từ đồ đá cũ đến đồ đá mới
Xa hơn nữa, vào thời đồ đá cũ, Thanh Hóa đã là nhà của những người vượn sớm nhất. Năm 1960, tại núi Đọ (Thanh Hóa), các nhà khảo cổ phát hiện dấu tích văn hóa núi Đọ – một nền văn hóa sơ kỳ với rìu tay, mảnh tước rải rác trên sườn núi. Cùng với núi Nuông, Quan Yên, họ sống thành bầy, săn bắn, hái lượm, và phân chia công bằng. Đời sống tinh thần cũng bắt đầu nhen nhóm qua những trò giải trí đơn sơ.
Đến hậu kỳ đồ đá cũ, văn hóa Sơn Vi xuất hiện ở vùng núi phía Tây như Cẩm Thủy, Bá Thước. Mái đá Điều (Hạ Trung) hé lộ hàng ngàn hiện vật trong vài mét vuông: công cụ đá, xương thú, thậm chí 10 ngôi mộ cổ với hai bộ xương hóa thạch hiếm có. Hang Con Moong (Thạch Thành) là minh chứng sống động cho sự chuyển giao từ đồ đá cũ sang đồ đá mới, với tầng văn hóa dày 3,5m chứa công cụ múi cam, chày nghiền, và dấu vết bếp lửa. Họ chôn người chết nằm co, bôi thổ hoàng – một phong tục độc đáo.
Sang thời đồ đá mới, văn hóa Hòa Bình tiếp nối Sơn Vi, tập trung ở các hang động gần sông suối. Hang Con Moong, mái đá Điều cho thấy công cụ đá tinh xảo hơn, như rìu ngắn, công cụ Xumatơra hình bầu dục, cùng đồ dùng bằng xương được mài nhọn. Họ sống định cư lâu dài, khai thác nhuyễn thể, săn thú, và bắt đầu trồng trọt cây củ, quả. Xã hội chuyển sang chế độ mẫu hệ, với phụ nữ đóng vai trò trung tâm trong kinh tế hái lượm.
Văn hóa Bắc Sơn đánh dấu bước ngoặt với kỹ thuật mài đá và sự ra đời của đồ gốm thô sơ. Dù vẫn phụ thuộc vào săn bắt, hái lượm, họ đã đặt nền móng cho nông nghiệp. Cuối cùng, văn hóa Đa Bút xuất hiện khi đồng bằng sông Mã hình thành, kéo cư dân từ núi xuống khai phá. Nông nghiệp lúa nước phát triển, dân số tăng, và các nghề thủ công như đánh cá, làm gốm nở rộ, làm phong phú thêm bức tranh văn hóa thời tiền sử.

Dựng nước và giữ nước: Những trang sử hào hùng
Thanh Hóa không chỉ là cái nôi văn hóa mà còn là đất khởi nghiệp của những cuộc kháng chiến. Năm 156, Chu Đạt (Triệu Sơn) ******* đánh bại huyện lệnh Cự Phong, quản lý Cửu Chân suốt 4 năm. Đến năm 248, bà Triệu Thị Trinh từ núi Nưa (Triệu Sơn) lãnh đạo nghĩa quân đánh tan quân Đông Ngô, lật đổ hơn 330 năm đô hộ. Thế kỷ 6, Lý Nam Đế lập nước Vạn Xuân, với anh em Lý Thiên Bảo tiếp tục kháng chiến ở Bá Thước. Đầu thế kỷ 7, Lê Ngọc chống nhà Tùy, tự quản Cửu Chân từ Đông Phố.
Thế kỷ 10, Dương Đình Nghệ tụ nghĩa ở Thanh Hóa, đánh đuổi Nam Hán năm 931, mở ra thời kỳ độc lập. Ngô Quyền, từ Cửu Chân, đại thắng Bạch Đằng năm 938, chấm dứt ngàn năm Bắc thuộc. Thời Tiền Lê, Lê Hoàn đánh tan quân Tống, Chiêm Thành, và xây dựng hệ thống giao thông sông ngòi. Nhà Lý đặt tên Thanh Hóa từ năm 1029, khẳng định vị thế hành chính. Nhà Trần ghi dấu với Lê Văn Hưu – ông tổ sử học – và các trận đánh chống Nguyên Mông. Nhà Hồ dựng Tây Đô ở Vĩnh Lộc, dù ngắn ngủi, vẫn để lại dấu ấn cải cách.
Cuộc kháng chiến 10 năm của Lê Lợi (1418-1428) khởi nguồn từ Lam Sơn, giải phóng đất nước khỏi nhà Minh. Thời Lê sơ, Lam Kinh trở thành biểu tượng, dù trải qua nhiều biến cố. Thời Lê-Mạc, Thanh Hóa là căn cứ chống Mạc của Nguyễn Kim, Trịnh Kiểm. Tây Sơn phá hủy nhiều di tích nhưng không dập tắt tinh thần xứ Thanh. Dưới nhà Nguyễn, Thanh Hóa được coi trọng đặc biệt, là đất tổ với hệ thống phòng thủ hùng mạnh. Cuối thế kỷ 19, phong trào Cần Vương ở Ba Đình chống Pháp để lại dấu son rực rỡ.
Thời hiện đại: Bước chuyển mới
Từ những tổ chức cách mạng đầu tiên năm 1926-1927, Đảng bộ Thanh Hóa ra đời năm 1930, dẫn dắt nhân dân giành chính quyền năm 1945. Ngày 23/8/1945, chính quyền cách mạng tỉnh ra mắt, mở ra kỷ nguyên mới. Thanh Hóa, từ cái nôi của các vương triều Tiền Lê, Hậu Lê, Nguyễn, đến nay vẫn tiếp tục góp phần xây dựng đất nước giàu đẹp.
Hiện nay, khi đất nước đang trong công cuộc cách mạng tinh gọn nâng cao hiệu quả bộ máy, tổ chức bộ máy chính quyền địa phương còn hai cấp, Thanh Hóa được xếp vào một trong số ít các tỉnh thành đạt cả tiêu chí về diện tích và dân số. Trước đây, Thanh Hóa cũng chưa từng nằm trong số các tỉnh thành được nhập/ tách.
Liệu lần này có thay đổi gì không? Kết quả sẽ có muộn nhất trước tháng 9/2025.
Diện tích tự nhiên của tỉnh Thanh Hóa: 11.114,70 km² (theo số liệu thống kê chính thức trước khi có sự thay đổi đơn vị hành chính). Thanh Hóa có dân số khoảng 3,6 triệu người.
Từ ngày 1/1/2025, theo Nghị quyết 1238/NQ-UBTVQH15, Thanh Hóa có:
- 26 đơn vị hành chính cấp huyện: 2 thành phố (Thanh Hóa, Sầm Sơn), 2 thị xã (Nghi Sơn, Bỉm Sơn), 22 huyện.
- 547 đơn vị hành chính cấp xã: 32 thị trấn, 63 phường, 452 xã.